Thứ Sáu, 21 tháng 12, 2012

QUÊ HƯƠNG VÀ MẸ



Chiều 30 Tết như mọi năm. Hạnh quày quả xong việc cúng Tất niên giúp mẹ, rồi về lại nhà mình. Con đường giờ vắng người qua lại, chạy ngược chiều với Hạnh là các cô gái, ai nấy với dáng vẻ vội vả, đạp lọc cọc trên những chiếc xe đạp thồ cũ kĩ. Họ đang đạp nhanh chân để về cùng với gia đình. Họa hoằn lắm mới có một vài chiếc xe máy, coi bộ cũng đã cũ kĩ lắm rồi, giờ được tu sửa lại để thồ than. Bụi đen bám đầy vành xe, ngay cả trên khuôn mặt, tay chân họ, dù bịt kín đến đâu cũng dính nhiều vết than lem luốt. Đèo trên xe là vài gói hàng nho nhỏ, họ còn chịu khó cột thêm mấy chậu hoa vạn thọ hoặc hoa hướng dương đang héo lả đi vì nắng. Họ sẽ chưng chúng trong dăm ngày Tết cho vui nhà vui cửa. Có thể sáng nay, họ vừa bán xong mấy bao than ở đâu đó trong cùng ngõ hẻm của xóm biển Tân Long, dưới cầu Tân Lý, chợ La Gi hoặc xa hơn nữa là lên đến dốc tỉnh chợ Tân An. Họ gom góp thêm được ít tiền, rồi mua vội ba thứ hàng quà như vài gói bánh in, vài bị kẹo thèo lèo, vài lạng hạt dưa, mua thêm ít thịt, xương heo nữa về hầm nồi măng đang ngâm ở nhà. Buổi chiều, họ sẽ cúng tất niên có hơi trễ, nhưng dù sao như vậy cũng ấm cúng lắm rồi. Mấy cô gái vừa đạp xe vừa chuyện trò rôm rả. Dường như không có điều gì khiến họ ưu tư, phiền muộn cả; đời sống kham khổ đã trở thành quá quen thuộc đối với họ!
Hạnh chợt nghĩ: Giá như một vài công ty nào đó về đây đầu tư xây dựng, mở nhà máy, xí nghiệp sản xuất để các thanh niên này vào làm việc thì hay biết mấy. Không khéo thì người dân nghèo cứ bám riết, khai thác dần hết cây cối trong khu rừng Tân Thắng, Núi Bể để đốt than thì sẽ có ngày rừng già cũng cạn kiệt, đồng thời nạn lũ quét như năm nào đó có thể đổ ập đến bất ngờ. Nhiều chàng trai, cô gái ở vùng này việc học  phải bỏ dở chừng, chen chân vào đến thành phố Hồ Chí Minh kiếm sống. Họ trở thành những công nhân, lương tháng trên chừng một triệu bạc, phải lo toan, trang trải đủ mọi chuyện , từ việc trả tiền nhà trọ, chi tiêu ăn uống tiện tặn, còn lại dành dụm chút đỉnh để gởi về gia đình. Người dân Sơn Mỹ, Cam Bình ở đây đã một thời có truyền thống hiếu học. Nhiều gia đình biết lo cho con cái ăn học đến nơi đến chốn, các em nay đã  thành đạt, làm việc ở ngay trong thị xã La Gi, huyện nhà Hàm Tân hoặc một số tỉnh, thành phố khác.
Nhớ lại mùa xuân năm 1975- Vào những ngày giáp Tết Nguyên Đán, lần đầu tiên Hạnh về Động Đền, Bình Tuy thăm bà con. Nơi đây, phần đông là người dân Quảng Trị vào sinh sống, lập nghiệp. Theo chân các chị lên một con dốc cao, vào dịp trường Trung học Sơn Mỹ tổ chức cắm trại Hội xuân, Hạnh thấy vui  khi nhìn các trò chơi sôi nổi đang diễn ra giữa đám học trò  xa lạ. Không biết chừng  trong đám đông đó có thể có một vài người bạn thân quen của mình hồi học trường Nguyễn Hoàng. Sau đó, Hạnh lại trở về Mỹ Tho với tâm trạng buồn rầu. Hạnh đã mất mát quá nhiều, chiến tranh đã lấy đi những ngày sống yên bình trên quê hương Quảng Trị dấu yêu; đã làm cho những kỉ niệm của tuổi thơ dần phôi pha, không còn đậm nét .
Tiếp theo là những ngày của biến cố lịch sử, 30 tháng 4, Đất nước thống nhất. Hè năm đó, gia đình Hạnh về sống tại đây. Ngôi nhà tranh đơn sơ, bé nhỏ dưới chân đồi cũng  đủ sức che chở cho cả gia đình qua những mùa mưa gió.
Mặc dù không có một chút kinh nghiệm gì về nghề nông nhưng dần dà công việc trồng trọt cũng quen. Những ngày hè trên miền quê mới là những ngày Hạnh thường xuyên lên rẩy. Sáng sớm, vác cuốc trên vai, Hạnh cùng đứa em trai đi ra khỏi nhà. Lội qua con suối, nước trong mát lạnh; có khi Hạnh ngâm nga bài hát “Bóng cây Kơnia” mà thấy trong lòng một thoáng thú vị. Chị em Hạnh trồng bắp, trồng khoai trên miếng đất mới khai hoang ; trồng trọt rất vụng tay nhưng may thay năm đó được mùa, đủ ăn trong mấy tháng trời; cái thì ăn tươi, cái thì phơi khô để dành ăn dần. Mấy tháng trồng trọt, vun bón, sau đó thu hoạch biết bao trái củ mang về. Niềm vui sướng khi thu được kết quả do chính bàn tay mình lao động, làm người ta vơi đi bao nỗi mệt nhọc vì nắng, vì mưa, vì bao giọt mồ hôi mặn chát. Bên cạnh những lô đất trồng bắp, trồng khoai là những rẩy dưa, trái nào trái nấy căng tròn, nằm phơi mình dưới nắng như bầy heo con. Người ta dễ thân thiện, dễ làm quen nhau. Những buổi trưa đứng bóng, khi mặt trời lên tới đỉnh đầu, ánh nắng thật chói chang; tiếng tu hú đâu đó vẫn còn râm ran gọi bầy, chỉ í ới một vài tiếng là bạn bè đã có mặt bên nhau, trước lạ sau thành quen, dân Quảng Trị, dân Bình Long đều trở thành thân thiết. Họ cho nhau nhiều trái dưa, trái bắp rồi cùng ngồi ăn mấy lon cơm độn dưới bóng mát của cây rừng. Có khi bổ vài trái dưa ra cùng ăn chung hoặc vùi vài củ khoai, trái bắp  thơm lừng, tưởng chừng như vừa ăn vừa thưởng thức được hết cái hương vị thơm ngon của chúng. Thỉnh thoảng có vài ngọn gió mát rượi từ hướng biển thổi lên xua tan cái nóng hầm hập giữa buổi trưa hè.
Biển cả cũng phóng khoáng cho ngư dân được mùa cá, mực, ghẹ xanh, tôm hùm… không thiếu thứ gì. Có một vài anh chàng thư sinh, dáng trói gà  không chặt, ngày nào cũng hăm hở ra biển với ngư dân Triệu Hải, tập tành với nghề sóng gió; sáng sáng chiều chiều, phụ kéo lưới đến phỏng rộp cả mặt, tay chân trở nên sần sùi, chai cứng.
Ai cũng sợ đói, đều chịu khó làm lụng; dù vất vả đến đâu cũng không hề một tiếng than van. Đêm về, trong lúc người lớn tranh thủ nghỉ ngơi thì lứa thanh, thiếu niên, lại tập trung sinh hoạt, vui chơi, ca hát, nhảy múa vòng tròn quanh đống lửa hồng. Nếu gặp những đêm trăng sáng thì lại càng thấy vui hơn! 
Mùa tựu trường đầu tiên sau ngày giải phóng, Hạnh mang tâm trạng bi quan, chán nản, đã có ý định bỏ học. Nhưng cho đến khi thấy bóng dáng vài học sinh trong bộ đồng phục trắng, cắp sách đến trường là Hạnh không thể nào kềm chế được lòng mong muốn đi học trở lại.
Nghèo khổ lắm! Đất nước thời kì ấy biết cơ man nào là gian khổ. Hạnh, người bạn tên là Diễm Thi và bà cô Quyên, chỉ hơn nó một vài tuổi, là bộ ba thân thiết, ngày ngày cùng nhau đi học, ở chung nhà trọ gần trường cấp 3 Hàm Tân. Nhà Diễm Thi, Quyên ở trên đồi, đi bộ một quãng xuống dốc là về đến nhà Hạnh. Cứ mỗi sáng sớm vào ngày đầu tuần, Hạnh đợi hai bạn xuống rủ, cùng đi trên đường đến trường. Con đường đất đỏ ngày ấy đi bộ thấy thật là xa, không phải như con đường tráng nhựa, đi lại dễ dàng hôm nay. Ba đứa vừa đi vừa nói chuyện quên đi cả mỏi chân. Bắt đầu đi từ lúc trời còn tối đen như mực, cho đến khi đến trường thì vừa sáng hẳn. Cái mệt bỏ qua một bên để bắt đầu vào việc học. Gia đình lo cho vài lon gạo, kèm theo ít khoai lang, đồ ăn và chút đỉnh tiền để  đủ ăn trong một tuần lễ.
Chiều lại chiều, Hạnh cứ ngong ngóng về hướng nhà mình. Từ nhà trọ về nhà nếu không ngăn cách bởi khu rừng tràm thì không xa lắm. Hạnh buồn ! Một nỗi buồn dai dẵng cứ ập đến. Không biết giờ ba mẹ, chị và em Hạnh đang làm gì? Chắc giờ này, ba đang ngồi gọt dăm ba củ khoai để hầm sẵn, đợi mẹ đi chợ chiều Thanh Linh về, mua được ít cá tươi bỏ vào nồi cháo ăn tối. Hạnh thương ba, một viên công chức, một thời làm việc liêm khiết, nay sống bất đắc chí trong hoàn cảnh nghèo khổ; Hạnh thương mẹ, tảo tần sớm hôm, không hề than thở một lời . Người anh cả đang còn học tập “Cải tạo” ở xa chưa về sum họp cùng gia đình; một người chị vừa học xong cấp 3, đang xin làm công nhân lâm trường; hai đứa em trai đều  tuổi ăn, tuổi lớn, còn đang cắp sách đến trường.
Hạnh bất chợt nhớ những buổi chiều Tết năm nào…
Hoàng hôn dần buông. Hạnh lên dốc Thanh Linh đón mẹ về. Trên đôi vai gầy của mẹ là một gánh hàng lỉnh kỉnh. Mẹ tự mình gánh lấy, bươn bả về nhà, vượt qua con dốc, con đường đôi đoạn lún sâu vì cát, có đoạn nước ngập phải lội bì bõm. Hạnh vừa đi vừa chuyện trò cho mẹ vui. Mẹ đã hi sinh tất cả vì các con . Mặc dù tay trắng, không còn gì sau chiến tranh, nhưng mẹ không hề nãn chí; mẹ vẫn lo cho Hạnh ăn học đến nơi đến chốn. Mẹ nói rằng: “Mẹ không có gia tài gì cho con quý bằng vốn chữ nghĩa; con hãy học cho bằng người ta.” Thời buổi đó biết bao người hàng xóm dè bỉu, cho rằng con gái không cần học nhiều. Điều đó mẹ bỏ ngoài tai, mẹ vẫn lo cho Hạnh học cho xong năm cuối cấp 3, rồi gom góp tiền lo lên đường thi đại học …Hai mẹ con về đến nhà thì trời cũng vừa sập tối. Ánh đèn dầu leo lét hằng đêm giờ được khơi cao hơn, tỏa sáng cho ngôi nhà tranh nhỏ bé, càng lan tỏa sự ấm áp cho gia đình. Cả nhà quây quần bên nhau trong bữa cơm tối để chờ đón giờ phút giao thừa.
Hôm nay, ngôi nhà tranh đã được thay thế bằng ngôi nhà xây khang trang. Bên cạnh là cây phượng già kỉ niệm, vài cây dừa ven bờ ao do chính tay ba Hạnh đã trồng. Ba Hạnh không còn để nhìn thấy vẻ đẹp của mùa phượng vĩ ra hoa, hàng dừa ra quả ; dù ba không còn trên cõi đời này nữa nhưng những hình ảnh ấy luôn nhắc nhở đến ba. Hè về, mùa phượng nở hoa rực rỡ, một rừng hoa đỏ thắm, tràn ngập cả vòm cây; cho đến khi màu đỏ vơi dần, những bông phượng còn lưu luyến, cố chen lẫn vào những tán lá xanh um. Mỗi tuần Hạnh về thăm mẹ là thấy có sự thay đổi rõ. Có khi hoa rụng đầy sân, mẹ không quét kịp, để lại như một tấm thảm đỏ. Mấy đứa cháu phụ bà quét sân, gom xác hoa phượng thành mấy đống nhỏ để hốt bỏ vào dưới gốc cây sau vườn. Chưa đến cuối hè, chỉ qua mấy trận mưa to, trên cây hầu như không còn màu hoa đỏ nữa mà thay thế bằng màu xanh của những tán lá xòe rộng, che mát gần cả sân; bất ngờ hơn nữa là vô số trái non đang thi nhau nhú ra.
Mỗi khi nghĩ đến hình ảnh người mẹ già còm cõi chiều nào cũng ngồi trên chiếc ghế đá dưới gốc cây phượng, mẹ dõi mắt ra đường ngong ngóng người thân là Hạnh lại thấy nao lòng. Bình Tuy, đây là vùng quê mới, gắn bó với mẹ suốt bao nhiêu năm trời, tiếp sức mẹ nuôi dưỡng đàn con lớn khôn, rồi nay mỗi đứa đi một phương. Hôm nay mẹ còn ở đây, ai bảo “ Mẹ già như chuối bà hương”, mẹ vẫn chờ đợi các con , các cháu ngày về. Ngôi nhà này sẽ lại đầy ắp tiếng cười đùa của trẻ cho mẹ thấy vui lòng.
          

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.