Vẫn biết sống là hướng về tương lai, nhưng dĩ vãng là tấm gương nên ngắm lại.
Thứ Hai, 31 tháng 12, 2012
Thứ Bảy, 29 tháng 12, 2012
Thứ Tư, 26 tháng 12, 2012
Thứ Bảy, 22 tháng 12, 2012
Thứ Sáu, 21 tháng 12, 2012
Đi về miền kỉ niệm
Một chuyến đi về quê hương thật quá nhiều kỉ niệm. Phải nói rằng,
có bốn điều tuyệt vời trong một chuyến đi dài ngày: về thăm quê ngoại, quê nội,
dự hội trường và gặp mặt, cùng đi chơi với bạn bè. Trong thâm tâm tôi tự hứa
vào đầu mùa hè năm 2014 hoặc năm sau, tôi sẽ trở về một lần nữa.Tôi đã đặt mua vé tàu lửa
cho chuyến hành trình về quê trước cả tháng, ngay từ khi năm học còn chưa kết
thúc. Biết tôi gởi tiền ra Huế để nhờ mua cả vé tàu về, ai cũng bảo rằng tôi
quá lo xa. Tôi đếm từng ngày cho đến ngày lên đường. Có những đêm tôi thao thức
không ngủ được vì cứ nôn nao nghĩ đến ngày về quê sau bao năm xa cách, cả đến
40 năm dài đằng đẵng. Tôi chuẩn bị đầy đủ hành trang nhiều ngày đi, tất cả cho
một cái va li to kềnh, kể cả vài cái áo khoác dày để dành cho bà con mặc mùa
đông. Chắc khi trời đông giá rét hoặc mưa phùn lất phất, những ai mặc chiếc áo
ấm áp tôi tặng ắt sẽ nhớ đến tấm lòng
của tôi. Ngôi nhà tôi đi vắng không hẳn vắng vẻ, lạnh lẽo vì tôi đã nhờ được
người hàng xóm trông nom; đêm đêm có hai chị em song sinh qua nhà, các kênh
hình MyTV sẽ lôi cuốn chúng. Mai
đây, một mình tôi sẽ thong dong trên đường thiên lí, bỏ lại sau lưng những gì
lo toan, khiến tôi không có một mùa hè nào được thảnh thơi. Tôi thích đi tàu
lửa vì đối với tôi rất thú vị, tiếng còi tàu năm xưa như từng nhắc nhở những kỷ
niệm về quê nội.Buổi trưa ngày 20-6Mọi hành lí chuẩn bị đâu
đó sẵn sàng, tôi và dì ra đường đón xe bus. Như đã hẹn, chị chồng tôi đã có mặt
và ngồi chờ trên chiếc xe sắp sửa khởi hành. Xe bus tuyến đường La Gi- Phan
Thiết chạy theo con đường ven biển, từng làn gió mát mẻ dễ chịu thổi vào ô cửa.
Cảnh biển nơi đây tuyệt đẹp: một bên là bờ biển, sóng vỗ vào ghềnh đá thơ mộng,
một bên là những xóm chài vẫn còn giữ nét hoang sơ. Mũi Điện Kê Gà ở xã Tân
Thành nhìn từ xa thật hùng vĩ. Kia rồi là ngọn Hải Đăng giữa biển xanh mênh
mông, nơi đêm về có ánh đèn chói lòa định hướng cho tàu bè qua lại và cho cả
những ngư dân đang còn trên những chiếc thúng câu ngoài khơi xa. Tôi là người
dân địa phương nhưng chưa một lần đặt chân lên đến ngọn hải đăng này, trong khi
đó có những người khách du lịch từ phương xa tìm về đây, thích thú ngồi trên
thúng câu hoặc ghe máy để ra tận chân tháp, có khi họ mạo hiểm leo lên đỉnh
ngọn hải đăng chong chênh giữa sóng nước. Những khu resort nằm liền kề nhau chạy dài từ xã Tân Thành cho đến
xã Tiến Thành theo con đường ven bờ biển, nơi đó những khu nhà khang trang mới
được xây dựng, nằm lấp ló trong rừng dương râm mát. Chiều thứ tư ngày 20 tháng 6 năm 2012 Cả 3 người: tôi, dì và chị chồng tôi,
mỗi người đều mang theo 2 xách tay, vali; khi ở chợ Phan Thiết ra, còn đèo
thêm 5 thùng đồ và túi xách gồm nhiều trái cây thanh long, chôm chôm, bánh cốm
sữa, bánh rế. Đây là món quà của
miền đất Nam
Trung bộ đem ra biếu bà con mình ở quê và để cúng chùa. Từ nhà chị tôi ở chợ
Phan Thiết ra đến ga Mương Mán khoảng chừng hơn mười cây số. Chúng tôi gọi xe
taxi ra ga Bình Thuận lúc 16 giờ. Gần 19 giờ 30 phút, tàu đến, tiếng còi kéo
một hồi dài báo hiệu từ xa;
mọi người vội vã lên đúng toa của mình. Tôi là người lên sau cùng. Tàu lại tiếp
tục chuyển bánh trên chặng đường dài ra Bắc; dì và chị đã vào chỗ ngồi, còn tôi
phải sắp xếp từng thùng hàng xong, rồi mới yên tâm ngồi vào ghế. Trời tối hẳn
nên tôi không nhìn rõ mọi vật xung
quanh, thỉnh thoảng tôi chỉ thấy những hàng điện đường chạy ngược lại với đoàn
tàu. Càng về khuya, tiết trời càng lạnh, giấc ngủ chập chờn đến với tôi theo
bánh tàu chạy sầm sập trên đường ray… Chiều thứ năm ngày 21 tháng 6 Qua 20 tiếng đồng hồ mong đợi trên con
tàu SE6, thế rồi tàu cũng dừng bánh trên ga Đông Hà. Niềm vui như vỡ òa, chút
nữa thôi tôi sẽ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Tôi cố nén đi giây phút xúc
động, vì tôi đã về đây rồi. Có những ai đã đi đi về về biết bao nhiêu chuyến, nhưng
chưa hẳn đã có những cảm xúc giống như tôi. Vì vội vàng hay vì quá nôn nao mà
cả ba chúng tôi đã kéo đồ đạc chuẩn bị sẵn ở cửa xuống tàu ngay từ ga Diên
Sanh. May thay, cái va li kéo của tôi cũng như chiếc xe đẩy tiện lợi, nó còn
kéo thêm được hai thùng quà nặng trịch. Một vai tôi vác chiếc ba lô, trên tay
còn đèo thêm chiếc túi, một tay tôi kéo chiếc va li ra khỏi mấy đường ray để
vào hẳn bên trong. Tôi chia tay chị chồng ngay tại sân ga.Tôi gọi xe taxi cùng
dì về làng Nại Cữu, quê ngoại của tôi. Xe bon bon chạy trên quốc lộ ngược về
Quảng Trị, khắp nơi chỗ nào tôi cũng thấy những công trình xây dựng đang còn
dang dở. Tôi không thấy con đường vào chùa Sắc Tứ đâu cả. Bác tài xế giải thích
các cơ quan đã xây lên trước mặt nên từ xa không thể nhìn thấy quang cảnh ngôi chùa.
Thay vì chạy theo con đường mới An Môn về Sãi cho nhanh thì tài xế cho xe chạy
vào chợ tỉnh. Xe chạy qua cầu Ga, rồi quẹo vào đường Trần Hưng Đạo. Trường Bồ
Đề vẫn còn vết tích nham nhở, đổ nát do chiến tranh. Từ trường Bồ Đề về chợ sao
nhanh thế! Ngày hôm nào tôi đi bộ lên nhà cô Sâm dạy Anh văn ở tuốt trên này thấy
xa lắm mà! Cửa chợ đây rồi, nhưng vị trí thay đổi, không còn như trước, bên
phải đường Quang Trung. Bác tài, đó là ngã tư Quang Trung, Trần Hưng Đạo à? Bác
gật đầu. Nhà sách Tùng Sơn ở góc đường đối diện nhà ông Khiết nay là quầy thuốc
tây. Làm sao tìm lại khu chợ bao quanh bởi con đường Trưng Trắc, ở quanh đó những
ngôi nhà bạn bè, mãi mãi lưu giữ biết bao kỉ niệm thuở đi học trong ký ức của
chúng tôi? Đường Trần Hưng Đạo xưa kia dài
và rộng, sao giờ này hình như ngắn và thu hẹp lại. Bạn bè tôi đã từng về Quảng
Trị nói với tôi rằng thị xã mình giờ
nhỏ bé lắm, chỉ bằng lòng bàn tay, chạy xe một vòng là hết. Thật đúng như thế,
thuở bé với đôi mắt trẻ thơ thì mình thấy cái gì cũng to lớn, còn giờ mình lớn
lên rồi thì thấy cái gì cũng như thu nhỏ lại. Đoạn đường từ chợ về xóm cửa Hậu
thấy xa mòn mỏi, muốn đi về thăm mệ ngoại, tôi phải gọi xích lô để đi... Xe chạy
quá chợ, tôi nhác thấy thành cổ, cái tháp chuông cao cao. Cái vòng xoay nhỏ này
dẫn về đâu thế? Đó là con
đường mở rộng của xóm Heo ngày trước, nó chạy thẳng về các làng Bích La, Nại
Cữu…Tôi nhớ lại ngày Tết năm nào tôi và các anh chị họ, cả bầy lội bộ về làng
ngoại. Tôi góp nhặt lại trong trí nhớ tưởng tượng ra vị trí cầu Sãi, rẽ phải về
An Tiêm, con đường đất chạy dài phủ bóng hai hàng tre xanh mát rượi. Chúng tôi
về nhà dì Tưởng, bà con của mẹ tôi. Nhà dì ở gần bến sông. Khi vừa đến nhà, chỉ kịp chào hỏi xong là
chúng tôi chạy nhanh ra bến vung vẫy nước. Có khi bị nước bắn tung tóe ướt cả
mặt mũi, áo quần nhưng chúng tôi không giận lại còn cười đùa thích thú. Trưa,
chỉ ăn bữa cơm đạm bạc với dì mà tôi thấy lòng ấm cúng hơn trong ngày đầu năm
mới. Khi nắng chiều đổ dài trên các bụi cây, trên dòng sông trong veo, chúng tôi
giật mình vì đã đến lúc phải ra về. Trên con đường làng hồi sáng biết bao háo
hức, giờ cảm thấy sờ sợ; cả bọn bị hù dọa nên chạy đuổi theo nhau về nhà trước
khi mặt trời tắt bóng. Dì tôi nói dì Tưởng giờ mắt nhìn không rõ, đang sống nương cậy vào đứa
con ở đâu đó trên Tây Nguyên. Vậy là một
người nữa tha hương vì mưu sinh cuộc sống. Biết đến bao giờ dì trở lại chốn này? Người
già bao giờ cũng muốn quay về nguồn cội, như lá rụng về cội vậy. Trên mảnh đất
ngày xưa là ngôi nhà của cậu Hòa, em trai dì đang sinh sống. Tôi nhận ra cổng
vào làng, ghi rõ tên ngôi làng Nại Cữu. Xe chạy qua ngôi nhà thờ họ Võ ở đầu
làng. Hai bên là những ô ruộng xanh rì, sóng lúa nhấp nhô. Một vài con bò đứng
ngáng đường trên con đường đất đỏ mấp mô. Dì tôi chỉ về phía trái, đó là mộ ông
bà tổ tiên bên ngoại của tôi, mà chiều nay dì cháu tôi sẽ đi viếng. Cậu tôi chạy xe máy
ra đón, dẫn đường cho xe vào đến tận ngõ. Tôi nhận ra hàng rào chè tàu chạy
quanh ngôi nhà, bên trên đầy những sợi tơ vàng mà thuở bé thơ, tôi rất thích
bày trò chơi đồ hàng. Ngôi nhà ngày nào nhìn ra mặt sông, nay đã đổi hướng; vẫn
còn đó một khu vườn nhỏ, có những cây mít, ổi sai trái, những bụi chuối đang
trổ buồng, có cả cây chè già, lá dày xanh thẫm…Điều trước tiên tôi hỏi cậu về
bến sông xưa; cậu tôi nói rằng ngày mai cậu sẽ dẫn tôi ra xem. Trong không gian
vắng lặng của miền thôn quê, tôi cảm nhận mọi thứ đều khác, thậm chí khác cả
vùng biển nơi tôi ở, như anh tôi nói: anh ngửi được mùi vị quê hương, đó là mùi
khói bếp, mùi khói của rơm rạ, mùi ngai ngái của của những đống rơm ủ bên
nhà… Sáng ngày thứ năm 22 tháng
6 Trên quốc lộ 1A, đoạn
đường chạy từ cầu Ga ra đến trước chùa Sắc Tứ, xe cộ đông đúc, tiếng còi xe réo
liên hồi không nghỉ. Tôi không nhận ra con đường đất đỏ dẫn vào chùa, có hai bên hai
hàng dứa dại như thuở trước. Tôi quên cả lối đi nên cứ chạy xe theo cậu. Không
phải đi theo con đường vào cổng chùa mà chúng tôi phải chạy men theo con đường
mòn bên cạnh để vào nghĩa trang. Những ngôi mộ buồn bã, hoang vắng nằm gần
nhau, núp dưới hàng cây keo tràm và dương liễu, tiếng gió vi vu nghe như điệu
nhạc buồn muôn thuở. Tôi thấy lại hình ảnh của những cây bông ngũ sắc, mà tôi
thường gọi là bông tiêu; hoa nó có nhiều màu và khi chín hạt nó giống như những
hạt tiêu nho nhỏ. Tiếng chuông chùa lại ngân nga trong không gian mênh mang đầy
tiếng gió hú…Tôi chợt nghĩ mệ ngoại mình ngày trước làm công quả cho nhà chùa, nay phần mộ của mệ được
nằm gần chốn Thiền môn, đó cũng là hồng duyên của mệ. Các ngôi mộ của các cậu
tôi, mợ tôi, các em tôi cũng được nằm tề tựu chung quanh mệ. Nếu không có sự
trông nom của cậu Hòa, người bà con còn lại ở quê nhà, không dễ gì tôi tìm ra
được những ngôi mộ của người thân. Một nỗi buồn xâm chiếm lòng tôi. Tôi nhớ đến
hình ảnh của mệ ngoại trong những năm tháng ở Hàm Tân, sau năm 1975, ngày qua
ngày mệ già lom khom trong ngôi nhà tranh bé nhỏ. Cái khốn khó sau chiến tranh
như thử thách sự kiên nhẫn của những con người sống giữa buổi giao thời. Với
sức trẻ như chúng tôi có thể chịu
đựng được sự kham khổ, còn đối với người già như thế thì thật là tội đến nao
lòng: vì mệ tôi, mẹ tôi còn có nỗi nhớ khôn nguôi về những đứa con đang còn học
tập, cải tạo ở phương trời đất Bắc. Khói hương và lời cầu nguyện của con cháu
về đây viếng thăm như một lời an ủi, cầu mong cho người khuất mặt được an nghỉ.Chúng tôi chạy xe ngược ra
để đi vào cổng chùa. Con đường tráng nhựa thay cho đường đất sỏi đỏ vòng vèo
ngày trước. Tôi cùng dì, cậu vào
chùa thăm thầy và xin cúng qua đường, một chút lễ vật dâng lên Đức Phật từ bi
sau bao nhiêu năm mới trở về. Đây là chốn thanh tịnh, không đông đúc, ồn ào nên
khi bước chân vào vãng cảnh chùa, tôi cảm thấy tâm hồn mình thật thanh thản.
Một góc của chánh điện, đập vào mắt tôi là một cái trống màu đỏ sẫm thật lớn và
đẹp do một gia đình nào đó cúng dường. Ngôi chùa nay đã được trùng tu, không
còn thấy vết tích của chiến tranh, kiến trúc mới như còn lưu lại vẻ đẹp khá hài
hòa giữa nhân tạo và thiên nhiên. Chùa mới có vẻ khác ngôi chùa ngày trước, nhưng
dù sao tên chùa vẫn không thay đổi. Tôi rất tiếc khi không còn nhìn thấy hồ sen
tự nhiên trước tượng đài Phật Quán Thế Âm mà thuở đi học, mỗi khi qua chùa, tôi
thường đứng ngắm những đóa sen phơn phớt hồng, đẹp thanh cao luôn muốn vươn cao
khỏi mặt hồ. Chiều thứ sáu ngày 22
tháng 6 Tôi đã mượn được chiếc xe
máy để chở dì tôi, rủ thêm cậu Hoa chạy lên xóm Cửa Hậu bây giờ thay đổi như
thế nào? Có lần, dì cho tôi xem một bức hình dì chụp khi trở lại Quảng Trị sau
trận Cầu Dài, dì đứng bên cạnh ngôi nhà đã đổ nát vì bom đạn. Tôi chạy theo con
đường cũ ra Sãi. Chợ Sãi buổi sáng vắng người, chỉ lèo tèo vài người mua
kẻ bán. Chạy qua cầu Rì Rì, qua con đập cao ngăn lũ lụt…Dì tôi kể hồi xưa nước
lụt thường cuốn trôi nhiều chiếc đò và người ở đây ra biển. Chúng tôi đi lên chợ
vào ăn bánh ướt ở một quán, người chủ là dân Quảng Nam . Bánh ở đây không ngon bằng
bánh ướt thịt heo luộc hồi sáng tôi ăn ở nhà cậu Hòa. Từ sáng sớm, khi tôi chưa
thức dậy, cậu đã đi bộ ra đầu làng, gọi là tập thể dục kết hợp đi chợ luôn thể.
Bánh ướt từng miếng trắng phau, ăn kèm thịt heo ba chỉ mới luộc còn nóng hổi,
gắp thêm ít rau giá, chấm với nước mắm ớt đặc trưng. Ăn đến đâu là thấy ngon,
ngọt ngào đến đó. Tôi tấm tắc khen ngon, khen thịt heo thơm, không như mùi vị
thịt heo trong Nam … Tôi chạy qua bùng binh, quẹo
trái về đường Phan Đình Phùng (tên cũ là đường Lê văn Duyệt, dẫn về xóm của
tôi). Tôi ngỡ ngàng và xúc động trước cảnh cũ quá nhiều thay đổi: cổng thành
nham nhỡ những vết tích đạn pháo, để lộ từng hàng gạch đỏ thâm đen; vẫn còn cái
cửa sắt dày, cũ kĩ, han gỉ nhưng không còn rào lưới thép chằng chịt như sau
ngày Tết năm 1967. Dì cháu tôi ngắm cảnh vật ở đây như muốn tìm lại được những
gì còn sót lại của ngày xa xưa. Ngay đến vẻ đẹp của những đám hoa lục bình tim
tím kia và những đóa hoa sen hồng cũng hoàn toàn mới lạ, chúng làm sao hiểu nỗi
niềm tâm sự của chúng tôi. Tôi nhìn ra phía trước cổng thành, chiếc cầu mới,
hình dáng cong cong khá uyển chuyển. Cái gì cũng mới, cũng đẹp. Con đường vào
xóm nhỏ, xóm cửa Hậu, dẫn vào khu chiêu hồi đâu rồi nhỉ? Nhà cửa họ xây chắn
ngang, không còn con đường dẫn vào xóm nhỏ. Tôi cố tình nán lại để quay nốt
hình ảnh này, chụp vài tấm hình về đường Trí Bưu, về xóm Heo, trong lúc dì tôi
giục về để có thể vào thành. Hôm nay cửa thành cổ đã đóng, không cho người ta
vào tham quan. Tôi không có dịp vào tham quan CỎ NON THÀNH CỔ để tận mắt thấy bao lớp cỏ non xanh kia như lời
một nhạc sĩ khóc thương bao chàng trai trẻ đã ngã xuống trên chiến trường khốc
liệt. Dì cháu tôi đành chia tay cậu để trở về làng, còn cậu tôi chạy ngược lên
cầu Ga. Lần này, dì bảo tôi chạy xuống đường An Tiêm thay vì đi đường cũ về
Sãi. Đây đúng là con đường xưa chúng tôi đã đi về làng, chỉ khác là con đập
chắn ngang dòng sông, có một con mương rộng, dài dẫn nước về các làng. Tôi hỏi
dì tên con sông uốn quanh làng Nại Cữu là gì ? -Vĩnh Định. Trong chiến tranh,
khi dân chúng già trẻ dắt nhau men theo con sông này chạy ra miền ngoài, bị bom
thả chết nhiều lắm, nằm la liệt dọc cả đường. Tôi rùng mình, như có một hơi
lạnh toát lên dọc xương sống của mình. Trời chiều, ráng vàng đổ dài trên dòng
sông, hoàng hôn dần buông. Những bụi tre vươn ra bờ sông như cố níu kéo, con
đường đất đỏ về làng có đôi chỗ gồ ghề khó chạy…Một buổi tối thứ hai ở
làng ngoại, sáng ngày mai tôi sẽ lên cầu ga.Sáng thứ bảy ngày 23 tháng
6Tôi lên nhà cháu bên chồng
ở cầu Ga gặp chị Thanh Thu. Gần chín giờ, chị Quảng Trung và Đoàn Hoa cũng vừa
xuống xe. Chúng tôi đi lên viếng mộ ba chồng ở trên La Vang. Trời thương sao mấy hôm
nay không đổ nắng gay gắt, không làm cho chúng tôi, những người ở Nam ra đây rất
sợ cái nắng và gió Lào. Những ngôi mộ nằm trên đồi cao, nhìn xuống hồ nước được
bao quanh một rừng cây xanh, phong cảnh đẹp như một ưu đãi của thiên nhiên dành
cho vùng đất khô cằn này. Con kênh dẫn nước từ hồ Tích Tường về trong vắt, nghe
nói đây là nguồn nước sạch sinh hoạt cho cả thị xã. Hôm nay là mồng năm, Tết
Đoan Ngọ, tôi được mời ăn trưa tại nhà cháu, mặc dù tôi cũng rất nóng lòng gặp
bạn bè; lúc này các bạn tôi sau chuyến đi chơi Bà Nà, Đà Nẵng, đã ra đến Quảng
Trị. Tôi đến khách sạn hơi trễ. Chúng tôi rủ anh Lê Chí Hùng, một cựu học sinh
Nguyễn Hoàng từ Boston về, cùng đi qua chùa Sư Nữ(nay là Long An. Trước kia là
các nhà sư nữ nay toàn là các thầy và
chú tiểu). Xe chở chúng tôi lên cầu Ga, đi về con đường mới thay vì phải đi đò
như trước đây. Còn tìm đâu hình ảnh các sư cô, hàng tháng, vào ngày rằm, mồng
một qua chợ Tỉnh bán đồ chay? Các bạn kể
trong chiến tranh, ngôi chùa Sư nữ đã bị đổ nát, tan hoang, một ngôi chùa
mới được xây lại trên đất cũ và tên chùa cũng thay đổi từ đó. Bến đò bên bờ sông
này, nơi ngày nào tụi học trò thường đi qua, giờ tìm đâu thấy? Tôi nhớ đến mỗi
lần qua chùa Sư Nữ, ở bến sông cạn trước chùa Tỉnh Hội, chúng tôi thường xắn
quần lội xuống nước một quãng rồi mới leo lên.
Ông lái đò nhẹ nhàng chống sào đẩy chiếc đò ra xa ... Vô số rong xanh trôi
dạt cả về một góc ở bến sông, đó là hình ảnh thật lâu lắm tôi mới thấy lại trên
dòng sông Thạch Hãn.Vẫn còn thời gian để đi
tham quan thánh đường La Vang. Đúng là con đường hồi sáng chị em tôi lên mộ.
Bên phải là khu sinh thái Tích Tường mà tối này chúng tôi sẽ dự tiền hội ngộ
Nguyễn Hoàng. Khi xe rẽ vào con đường, một nhà thờ cổ cao lớn, uy nghi, nổi bật
từ xa, như hình ảnh tôi từng thấy trên các trang mạng. Tôi từng nghe có rất
nhiều con chiên ngoan đạo từ các miền về hành hương ở thánh đường La Vang xứ
mình. Tối thứ năm ngày 23 tháng
6 Thật đông đúc người về dự
trong buổi tối “tiền hội ngộ Nguyễn Hoàng ” tại Tích Tường! Thu Sương đã liên
hệ với nhóm Sài Gòn nên đã có vé vào cổng. Tìm được hai, ba bàn ngồi gần nhau cho
cả nhóm chúng tôi. Phải nói là một điều tôi rất mừng và cảm động là gặp được
anh bạn hàng xóm Cửa Hậu: Huỳnh Văn Rô. Khi Liên nói tên, tôi nhìn qua bàn gần
đó, với gương mặt ấy, thân quen lắm! Tôi nhận ra ngay. Chúng tôi tay bắt mặt
mừng, han hỏi vài điều. Tôi nói rằng anh Phúc có về và giới thiệu để hai anh
gặp gỡ. Hồi nhỏ, ở xóm Hậu, mấy nhà trong xóm sống gần gũi, rất thân với nhau. Buổi tối tiền hội ngộ thật
có ý nghĩa, vì để đến sáng ngày mai hội trường, ắt không đủ lấy thời gian hàn
huyên tâm sự.Chúng tôi về sớm hơn so
với mọi người. Ra đến cổng, thật bật ngờ, khi thấy hai người đi xe máy đến trễ:
hóa ra là anh Nguyễn Văn Trị, trông anh bao giờ cũng bận rộn.Về đến gần cầu Ga, nhóm
chúng tôi đi tìm thú vui ăn tối vỉa hè. Hồi trưa ăn gà, giờ cũng ăn cháo gà, kệ
ăn cho no bụng rồi về ngủ. Mùi cháo gà thơm phưng phức, vị ớt cay cay ngon
lành; ngồi ăn bên vệ đường, ngắm người,
xe cộ qua lại, có gió mát điện đường thay cho trăng thanh, tôi thấy thích thú hơn là giờ này về khách sạn
nằm ngủ. Sáng chủ nhật, ngày 24
tháng 6 Chúng tôi dậy từ sớm,
chuẩn bị để đến trường trung học Quảng Trị. Nhóm Đà Nẵng ở cùng khách sạn, cũng
ra quán gần đây ăn sáng. Tôi nhận ra chị Bích Hường, con bác Kinh ở cùng xóm,
gần nhà cậu tôi; có anh Bảo Lâm, cái tên nghe quen trên mạng; qua chuyện trò,
tôi biết anh ấy là bạn của anh tôi. Xe chạy trên con đường Trần Hưng Đạo, chúng
tôi nhao lên vì sắp về lại ngôi trường yêu dấu. Phượng Tiên muốn xem lại vị trí
nhà mình, tiệm sách Tùng Sơn, nay đã thành của người khác. Anh Đào càng nóng
lòng hơn, xin tài xế cho xe chạy chậm theo bờ hồ, vẫn tên con đường Lê Thái Tổ, bạn ấy muốn tìm cho ra khu vực nhà mình ở từ
thuở ấu thơ. Người về ngày càng đông
hơn, ai cũng muốn đứng trò chuyện, tìm gặp bạn ở ngay cổng trường. Mỗi bạn
nhận, đeo cái phù hiệu màu xanh mang tên trường như mang một niềm tự hào mình
là cựu học sinh Nguyễn Hoàng. Những học sinh đã được học dưới mái trường này
nay tóc đã bạc, đã thành ông, thành bà nhưng giờ gặp lại nhau tay bắt mặt mừng,
chuyện trò rôm rả thấy mình dường như trẻ lại. Bất ngờ tôi gặp Thu Hồng, người
bạn hàng xóm, bạn học hồi ở trường nữ tiểu học. Cũng với dáng người ốm ốm cao
cao, khuôn mặt ấy không lẫn vào đâu được. Hai đứa mừng rỡ ôm choàng lấy nhau,
chuyện trò và nhắc đến dì tôi; Hồng nhắn dì tôi đến nhà cùng ra Đông Hà
thăm người dì của Hồng. Trong sân trường, dưới những tán cây xanh, chúng tôi
như tìm lại ngày xưa của chính mình; thật đông người tề tựu ngồi với nhau
chuyện trò chờ đến buổi lễ. Với chúng tôi, như là bầy chim về tổ xem chừng trẻ
nhất, cũng chừng năm mươi người ở các nơi hẹn ngày gặp mặt. Các bạn từ Sài Gòn
về đây như Lăng, Sương, Nguyên, Thảo, Anh Đào, hai cặp vợ chồng Sáng, Trường
Chinh, có Liên, từ Bình Phước, Ty, Lài về từ Bà Rịa, ở Bình Thuận chỉ có tôi;
Phan Rang, Ninh Thuận có Phục, từ Đà Nẵng còn có Huệ, Kim Anh, xứ Huế mộng mơ
có hai cô nàng Việt Anh, Phượng Tiên nhập đoàn. Ngay tại quê nhà Quảng Trị,
Đông Hà các bạn rất đông, tôi thấy những cái tên và những khuôn mặt các bạn
hình như quen lắm. Tôi cố lục lọi trong trí nhớ xem vị trí ngồi của mình và các
bạn. Tôi thích nhất là bạn Cận, Bạch Hoa, gương mặt bao giờ cũng tươi cười, luôn
đem đến cho bạn bè nhiều niềm vui rạng rỡ. Mai Thị Đầm, Lê, Mai Anh, bạn lớp
trưởng hồi tiểu học là Dương Thị Hóa…thật nhiều bạn bè có mặt trong ngày hội
ngộ. Tôi nhớ mường tượng bạn Lê Thị Hiền với nước da trắng trẻo, dáng người nhỏ
bé, ngồi cùng bàn đầu trong lớp với tôi, Anh Đào. Các bạn nam thì tôi không
biết rõ do hồi đó nam nữ học riêng; bạn
của các bạn tôi như Mai Thanh Cấp, Phước, Tuất, Bình, Ái,…ai cũng có công việc
làm ổn định, người làm nhà nước, kẻ buôn bán, có người làm cả quản lý chợ… Tiếc
rằng chuyến đi này về quê không có mặt Lý Thế Văn, Lê Thị Quảng, Ngọc Ánh,
Phương Trinh, Hải, Hường, Hảo, Lai, Phú…giá như có đầy đủ bạn bè thì vui biết
bao! Những bài ký sự của buổi lễ đã được anh chị ghi nhận, bày tỏ cảm xúc dạt
dào bằng các bài viết, quay phim, chụp hình lưu niệm. Riêng tôi, tôi đã chạy
quanh. Thật sự tôi không thể ngồi yên một chỗ vì thời gian cứ vô tình trôi đi,
tôi chụp hình chung với các bạn rồi lại tiếp tục chạy như con thoi. Dại gì mà
ngồi một chỗ, tôi đi tìm người quen, đi để mà chứng kiến cuộc gặp gỡ của biết
bao bè bạn các khối lớp. Tôi vô tình chụp được lúc hai chị quá xúc động gục vào
vai nhau khóc tấm tức. Tôi nhận ra anh Văn Thiên Tùng, anh Nguyễn Khắc Phước,
anh Bùi Văn Thu, Hoàng Văn Chẩm, các nhân
vật thường xuất hiện trong các trang blog nay bước ra ngoài đời bằng xương bằng
thịt hẳn hoi, giờ thì chúng tôi đã biết nhau rồi đó. Tôi còn gặp và chụp tấm
hình chị Võ Thị Quỳnh trong tà áo dài trắng học sinh, chị đội chiếc nón bài thơ
trông thật duyên dáng. Tôi lại đi tìm và gặp chị Mai, bà con của chồng tôi, chị
bị tàn tật và được ban liên lạc mời đến nhận quà. Tôi nhắc lại cho chị nhớ câu
chuyện chồng tôi kể chuyến về thăm quê cách đây đã 16 năm, lúc đó chồng tôi
nhận ra chị nhưng giả vờ là người khách hỏi mua hàng. Hàng quán của chị chỉ là
một gian nhỏ bên đường làng quê, tạm đủ nuôi chị và đứa cháu. Các chị chồng tôi cũng đi tìm gặp và
giúp đỡ chị. Thật thương tâm cho hoàn cảnh của chị, chị không dám ngẩng mặt
nhìn thẳng vào mắt người đối diện, vì một mắt của chị bị khiếm khuyết từ lâu.
Các phần lễ diễn ra khá dài để cho những học sinh nghèo và người khuyết tật như
thế phải chờ lâu. Tôi và anh Phúc, chị Túy Huệ gặp lại cô gái hàng xóm dễ thương là
chị Hà Thị Bích Hường. Tôi đi một vòng quanh sân trường, vào phòng lưu niệm để
xem hình ảnh, các di vật kỉ niệm, bản đồ đường phố Quảng Trị, tôi vẽ và viết bổ
sung thêm một số địa điểm, nhà các bạn mà tôi biết. Tôi còn vội vàng viết những
dòng lưu niệm. Không hiểu sao lúc đó lòng tôi dạt dào xúc cảm, tôi viết ra
không cần suy nghĩ lâu, chữ viết đúng là tốc ký nên chẳng đẹp, chẳng ý tứ gì cả. Tôi muốn góp thêm một bông
hoa thắm vào trang kỉ niệm Nguyễn Hoàng. Tập kỷ yếu anh võ Đình Đoan, nhờ anh
Hảo thay mặt nhóm 6471 ký tặng tôi, suýt nữa tôi bỏ quên ở phòng lưu niệm. Tôi
ra ngoài cửa phòng ngồi với Anh Đào. Chuyến này Đào đi tuy có mệt nhưng vui
lắm, Đào muốn ngồi nghỉ một tí cho khỏe. Ai đi vào cửa phòng lưu niệm cũng nhìn
hai đứa tôi, tôi thích quá, nói với Anh Đào chắc họ tưởng mình là ban tổ chức,
Đào cười hiền lành.Buổi cơm trưa được mời,
nhưng vẫn có những phần thiếu sót do thiếu chỗ ngồi. Tôi chịu khó đem hai cái
ghế vào nhưng các bạn tôi đi vào đâu hết rồi, tôi đành đứng ngoài. Thấy thầy cô
đi vào, đang còn lúng túng chưa có chỗ, tôi nhường ghế cho thầy Thăng và thầy
Bảo ngồi đỡ mỏi chân, trong lúc chờ ban tổ chức sắp xếp. Bạn Lăng, Chinh ra gọi
tôi vào. Ôi chao, trong hội trường người đông nghẹt, tôi ăn đứng cũng thấy vui
vui. Buổi trưa xong, tôi ra chào anh Phúc để về cùng bạn bè. Hai anh chị sáng
mai sẽ lên xe vào Bình Thuận trước, chuẩn bị cho chị Túy Huệ qua Mỹ. Chị Quảng
Trung cũng đi tìm chị Thanh Thu để hôm sau vào Huế, hai chị em gọi điện cho
nhau nhưng do người đông, ồn quá không nghe được. Hội ngộ Nguyễn Hoàng Quảng
Trị lần thứ 3 thật vui và có ý nghĩa! Tôi cũng như mọi người sẽ giữ mãi những
kỷ niệm đẹp đẽ này. Không biết lần sau tại quê nhà còn có được những ai về đây
gặp gỡ? Chiều chủ nhật 24 tháng 6 Cuộc vui vẫn chưa tàn. Mặc
dù biết sáng hôm sau sẽ có nhiều người vội vàng về với gia đình, về với công
việc nhưng chúng tôi lại rủ nhau đi đến quán café Tiếng Dương Cầm tại một góc
phố Đông Hà để hát cho nhau nghe. Buổi chiều được ăn no, tối đến lại vui ca
hát. Các bạn ở Đông Hà, Quảng Trị thật chịu chơi, thật sành điệu.Một buổi tối tại khách sạn
Violet. Phòng ba đứa tôi ngửi toàn mùi ẩm mốc và trời về khuya nghe rõ tiếng
gió rít qua khe cửa từng đợt… Sáng thứ hai ngày 25 tháng
6 Thu Sương rủ tôi, anh Đào
cùng về làng quê Vĩnh Lại thăm mộ ông bà; trong lúc các bạn khác đi về làng
Bích La của Xuân Nguyên, về làng bạn Ty. Tôi ra bờ sông Hiếu ở trước mặt khách
sạn ngắm bình minh, mặt trời đang lên, ánh sáng lan tỏa trên mặt sông thật đẹp.
Chúng tôi đi bộ một quãng qua khỏi cầu để cảm nhận được không khí trong lành
buổi ban mai. Xe đón ba chúng tôi về làng. Làng nội Thu Sương yên bình như bao
làng quê khác, có cổng làng, có những ruộng lúa xanh rì gợn sóng, lũy tre xanh trên
bờ đê, ngôi chùa khang trang, những ngôi mộ cổ xưa... Cửa Việt gần làngVĩnh Lại,
nơi ngày xưa bạn bè tôi rủ nhau đi xe đạp về đây vớt rong biển để chấm điểm môn
vạn vật. Chúng tôi không đi
biển vào sáng nay mà để dành vào buổi chiều đi có mặt đông đủ bạn bè. Ba đứa
đến bờ sông Thạch Hãn, chụp hình trên bến
thả hoa đăng. Tôi nghe bài đọc của phát thanh viên về chiến công lẫy lừng trên
đất Quảng Trị của những người con đất Bắc khiến tôi một lần nữa thấy rưng rức
trong lòng. Tôi dẹp bỏ ý nghĩ vào trong tham quan thành cổ cỏ non xanh, xem
tháp chuông chiêu hồn...Như đã hẹn, chúng tôi gặp lại
các bạn ở chùa Tỉnh Hội. Ngôi chùa nhỏ bé ngày nào tôi và Sương cứ mỗi chiều
chủ nhật về đây sinh hoạt học sinh phật tử. Biết bao kỉ niệm ùa về trong tôi… Trưa thứ hai, 25 tháng 6 Chúng tôi được vợ chồng
bạn Ái, chủ nhà hàng Tích Tường mời đến ăn bữa cơm trưa. Các bạn lên sân khấu
còn lại của buổi hôm tối qua để chụp hình lưu niệm. Đây là khu sinh thái, nơi
người ta tìm về gần gũi với thiên nhiên, nơi có nhiều cây xanh bao quanh mặt hồ
rộng, lặng sóng; không khí trong lành,
không nghe tiếng ồn ào xe cộ. Gió thổi lồng lộng, mát rượi, xua tan cái nóng
hầm hập của từng cơn gió nam bắt đầu thổi về. Bữa cơm trưa đầy đủ các món ăn
Quảng Trị như cá rô chiên, mít luộc, dưa môn kho, canh cá măng chua…mấy món
nước chấm cũng được trưng bày đẹp mắt. Thật cảm ơn sự đón tiếp nồng hậu của vợ
chồng bạn Ái. Tôi là bạn của bạn Ái nên ngồi nghe bạn bè họ chuyện trò, chỉ
thỉnh thoảng góp vài câu cho có lệ. Chiều thứ hai ngày 25
tháng 6 Chúng tôi ra biển Cửa
Việt, đi theo con đường từ Đông Hà thấy nhanh hơn là đi về từ Quảng Trị. Bãi
biển nào cũng có nét chung giống nhau, tuy nhiên bãi ở đây có phần trải dài hơn
so với bờ biển Cam Bình, La Gi, nơi tôi ở. Bạn bè nữ chúng tôi tha hồ nô đùa
như thuở bé dù tuổi đời đã là U50. Chúng tôi rủ nhau xuống bãi biển chụp hình,
các bạn đùa với sóng nước, luôn tạo dáng trước ống kính. Đào đã làm cho mọi
người thật bất ngờ. Anh Đào cười đùa vui vẻ làm cho chúng tôi vui lây, vì ai
cũng lo lắng cho sức khỏe của Đào trong chuyến đi xa dài ngày. Mấy món ăn hải
sản của được bày ra, chúng tôi ăn uống, chuyện trò, ca hát vô tư…Một buổi tối lại trôi qua
trong căn phòng đầy tiếng gió rít ở đầu hồi… Sáng thứ ba, ngày 26 tháng
6 Chúng tôi giã từ Đông Hà
để vào Huế. Món bún bò Huế được ăn ở đây thật đậm đà, ai cũng cảm thấy đói bụng
vì từ sáng đến giờ chưa có gì vào bụng cả. O bán đậu hũ trên vỉa hè cũng được
đạo diễn tạo tư thế ngồi để chụp hình, bạn Liên nhanh chân xin một tấm hình
được chụp bên cạnh gánh đậu. Ai cũng nôn nao khi đến tiệm bánh kẹo Thiên Hương
mua thật nhiều mè xửng, kẹo cau, trà, hạt sen về làm quà cho người thân.Rời Huế, xe chạy về Nam,
các bạn sẽ thả tôi ngay cầu Truồi, để tôi về thăm quê nội, xe tiếp tục đưa bạn
bè vào Đà Nẵng, thêm nữa một đêm vui chơi, sáng hôm sau lên máy bay trở về Sài
Gòn, giã từ miền kỷ niệm. Còn tôi, là đứa cháu lạc loài về thăm quê nội…
Bức thư còn viết dở
Chị Quỳnh thân mến
Bây giờ là giai đoạn mà những con người có cùng một ý hướng, cùng đi chung trên một con tàu để tìm về quá khứ, tìm lại những tháng ngày thơ mộng trên miền đất Quảng Trị. Ai cũng muốn chạy nước rút để về đến đích kẻo tuổi già sức yếu đang gần kề. Ngày 20 tháng 6 năm nay em sẽ về Quảng Trị trước ngày họp mặt trường, em tìm về Cội nguồn mà từ đó ra đi đúng tròn 40 năm.
Chị bảo em hãy viết thật nhiều, thật nhiều về những người bạn thân thương của mình. Việc này thì bạn Thu Sương và Thanh Hà nhớ rành rọt nhất, thậm chí Thanh Hà nhớ hết đặc điểm của từng bạn và viết một bài thơ lục bát thật dài và hay. Khi đọc những câu thơ sáu tám dí dỏm kể về hình dáng và tính cách của mỗi đứa trong đám bạn khối 6, khối 7 trường phân hiệu Nguyễn Hoàng, khiến ai cũng phải cười và thán phục. Sau khi rời xa Quảng Trị, các bạn em còn theo nhau vào học trường Nguyễn Hoàng ở Đà Nẵng. Những năm tháng thấm thía cái nghèo, cái khổ cực với cuộc sống tạm bợ trên đất Đà nẵng đã mang theo biết bao kỷ niệm vào những áng văn, những vần thơ…Em xa quê từ mùa hè đỏ lửa, gia đình em vào sống ở một tỉnh thành miền đất
Hồi đó, khi em từ giã cái xóm nhỏ ở ngôi nhà đường Lê văn Duyệt, phường Đệ Tứ, em lên ở nhà dì ở trong một ngõ nhỏ trên đường Quang Trung. Từ nhà em đi ra đầu đường là nhà Thu Sương, nhà Sương bên cạnh tiệm ăn Thanh Thanh. Bên cạnh miếu Ông Voi là lớp học của học trò lớp Một, lớp Hai.., hằng ngày vang lên tiếng ê a học bài. Từ đây đi đến một quãng nữa là nhà của Phượng Tiên, con gái tiệm sách Tùng Sơn, nhà ở ngay ngã tư Quang Trung và Trần Hưng Đạo, đối diện với tiệm ông Khiết. Em thường ra ở tiệm phụ mẹ và hai dì bán hàng tạp hóa. Tiệm ở trên đường Trưng Trắc, ở bên trái tiệm chụp hình Li Đô. Đây là tiệm chụp hình nổi tiếng của đất Quảng Trị hồi ấy. Em rất thích ngắm những bức hình chân dung lồng trong khung kính chưng bày trước cửa tiệm. Em vẫn còn nhớ bức hình của mợ em, một khuôn mặt khả ái của cô giáo trẻ Trần Thị Kim Thược. Bên cạnh tiệm là con đường dẫn vào chợ, nơi đây có mấy xe bán nước giải khát, mà mỗi buổi trưa đi học về khi trời đổ nắng gay gắt, em thường ra đó ngồi uống một ly nước chanh muối thì bao nhiêu cái mệt mỏi dường như tan biến. Đôi khi, em cũng thay đổi gọi một ly nước xi rô é, vị thơm của nước xi rô pha vài giọt hương chuối thơm lừng làm cho một đứa bé như em lấy làm thích lắm. Từ nhà đi ra tiệm không xa lắm, em phải băng qua các dãy hàng xén, các quán may, khu chợ lồng gồm những sạp vải, những gian hàng bán quần áo đẹp đẽ… Có lúc em đi một vòng bên ngoài khu chợ, rẽ phải bắt gặp những sạp hàng đầy hoa trái, nhiều sạp bán đồ hộp. Những hàng bán rau tươi xanh mơn mởn, rau quả từ các miền quê lân cận mang về. Đi qua cửa tiệm bán thuốc lá cẩm lệ, trong đó thấy chất đầy những cuộn thuốc vàng sẫm, người ta thường ngửi thấy mùi thuốc tẩm hăng hắc. Mỗi khi băng qua cửa tiệm này để về nhà, em thường đứng lại một hồi lâu xem mấy người thợ chăm chỉ làm việc. Tiếng cắt đều đều bén ngọt của con dao có bản rộng vào những cuộn lá thuốc. Đầu bên kia cho ra những sợi thuốc nhỏ màu hung vàng. Mấy bà dân Quảng Trị mình thích hút thuốc Cẩm lệ này lắm bất kể trời giá rét mùa đông hay trời nồm nóng bức. Trước mặt cửa tiệm của dì em là con đường bao giờ cũng tấp nập người mua kẻ bán. Họ bày hàng theo hai dãy ngồi đối diện nhau: đó là những thứ hàng miền quê như rau vườn, con gà, ổ trứng, …những thứ họ đem đến chợ để bán. Bên trong lồng chợ là dãy hàng ăn bao giờ cũng đông khách. Đi ra một quãng về phía hàng cá là dãy hàng thịt , hầu như là những bàn thịt heo, thịt mới mổ vào hồi sáng sớm. Em còn nhớ dáng người mập mạp, khuôn mặt phúc hậu của bác Biên, mẹ của mợ Chắc, vợ cậu em, nổi tiếng với nghề làm chả lụa, chả bông. Nhà bác ở xóm Heo, trên đường về đường Lê Văn Duyệt. Hàng cá là dãy sạp bán cá khô, mắm, đi xa hơn nữa là những hàng cá tươi. Từ hàng cá tươi đi ra ta sẽ gặp một trong những bến sông Thạch Hãn. Có thể cá biển được những người dân Triệu Hải, Triệu Sơn đánh bắt từ biển Cửa Việt, Gia Đẳng? Hồi đó em chỉ biết biển qua một vài lần đi chơi xa với bạn bè. Em chưa hề biết Cửa Tùng hay Cửa Việt là tận cùng của dòng sông Bến Hải, từ đâu đó trên nguồn có rừng mai vàng, dòng sông chảy qua cầu Hiền Lương, là giới tuyến, nơi chia cắt hai miền Bắc Nam, rồi sau đó dòng sông hiền hòa xuôi dòng nhập vào biển Đông mênh mông. Cửa Việt đối với em là những con sóng hiền hòa, có những bãi cát trắng, có hố nước lợ, nơi trú ngụ của đàn cá nhiều sắc màu đang tung tăng bơi lội khiến chúng em tò mò, thích thú. Có bạn bắt được vài con cá màu bé nhỏ bỏ vào túi ni lon hí hửng mang về nhà. Đó là một chuyến đi chơi của đoàn Học sinh phật tử do thầy Cẩn phụ trách. Chúng em rời xa phố tỉnh đông vui để tìm về với thiên nhiên bao la, phóng khoáng. Một lần khác, chúng em về cửa biển Gia Đẳng, về khu rừng tràm Trà Lộc. Giữa buổi trưa hè nắng chói chang, ngồi dưới bóng mát của những cây tràm, hồ nước muôn đời màu đà do ngấm sâu rễ cây tràm, hơi nước mát lạnh lan tỏa làm cho mọi người cảm thấy mát mẻ, dễ chịu hơn. Buổi chiều hôm đó, cả đoàn tập trung lại để tập hát trên sân trường ở vùng đất xa xôi, heo hút này, món quà giao hảo hết sức chân tình của bà con Trà Lộc là vài rổ khoai lang thơm phưng phức còn nóng hổi. Ở đây là quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn của một người mợ của em, mà từ khi cậu em đã chết trong chiến tranh, còn lại một mình mợ cũng tha phương, xa quê từ mùa hè năm 1972.
Năm 1963, ba em làm việc tại chi công an Hải Lăng Quảng Trị. Lúc này em chỉ là một bé gái mới 4 tuổi. Do hoàn cảnh ba làm việc xa nhà, nên mẹ con em vào ở với ba. Dù mới mấy tuổi đầu nhưng em còn nhớ như in những hình ảnh, kỷ niệm ở vùng đất nghèo khó này. Chi công an Hải Lăng nằm ở ngã ba, bên cạnh là một số cơ quan hành chính khác. Vào thời gian này, chi công an ở vị thế này hay bị pháo của bên CM lắm. Một lần, khi nghe tiếng hú của đạn pháo từ xa, mẹ em bồng đứa em nhỏ chạy xuống hầm, ba em thì lo việc chung của chi nên không kịp lo cho mẹ con em; khi lần thứ hai, mẹ trở lên để bồng em xuống hầm thì ngay sau đó là một quả pháo nổ ngay trên giường trước đó mẹ con em nằm. Em chỉ nghe và hoang mang nhìn mọi người, chứ em cũng chưa có cảm giác sợ hãi gì cả. Mỗi buổi sáng hoặc khi chiều về, em hay đi ra gần cổng để chơi. Hồi này, có một số người dân bị bắt vào đây, sau này em mới biết là họ hoạt động nằm vùng…. Em gặp một vài người phụ nữ, nhờ em đem quà bánh, thức ăn vào cho người thân bị nhốt trong khám. Ba em tuy làm việc ở trong chi, gọi là chi trưởng, nhưng ông sống được lòng nhân viên và ngay cả người dân nơi đây. Em có nghe ba em kể lại rằng có một chị cán bộ tên là Hoa, đã từng kêu gọi ba ra vùng cách mạng nhưng ba em không có ý niệm đó, ba em an phận sống cuộc sống an nhàn hơn sau vụ bị cách chức, về lại Quảng Trị chỉ làm nhân viên bình thường.
Em được mẹ dẫn lên bệnh viện để chuẩn đậu mùa. Đường lên bệnh viện nhỏ đúng là con đường dốc cát trắng. Em đi từng bước ngắn bên mẹ thấy mỏi nhừ cả chân. Mấy cô y tá áo blu trắng nhẹ nhàng làm công việc của mình. Hai vết rạch sắc lẽm trên cánh tay phải ôi đau điếng. Sau này, em biết vào thời kì đó, người ta sợ nhất là bị bệnh đậu mùa, di chứng để lại là để những vết rỗ dày đặc trên khuôn mặt thì không còn đẹp nữa. Không riêng gì em mà mấy đứa bé, trai có, gái có, được mẹ đem đến bệnh viện chuẩn đậu mùa. Có đứa khóc thét lên vì đau, có đứa hoảng quá đứng thụt lùi, nấp vào sau lưng mẹ. Còn em có thể vì tính gan góc hơn nên em bậm miệng lại, không thèm khóc như chúng nó đâu. Vì sợ đạn pháo vô tình đêm hôm nã xuống trên đầu, mẹ đem gởi hai chị em đến ở nhà người quen ở bên ngoài. Cứ mỗi buổi sáng sớm, em và chị Minh Tâm, hai chị em đi bộ vào làng để ăn sáng. Con đường nhỏ dẫn vào làng cũng không xa lắm, buổi sáng trong lành, đi giữa không gian thoáng đãng, cái yên ắng thanh bình của làng quê Hải Lăng như còn đọng mãi vào trí nhớ của cô bé. Đi bên chị, người chị chỉ hơn mấy tuổi, em như được chị mình che chở, hai cô bé gái con của một ông chi trưởng được dân làng coi như người quen. Cái vị cay cay của tô cháo nghi ngút khói trong buổi sớm mai, khi tiết trời se lạnh, vừa ăn vừa hít hà ngon đáo để. Nhưng cũng có hôm, em nhớ mẹ quá, đang đêm em đã bỏ về đi tìm ba mẹ, vừa đi vừa khóc, làm mấy người ở ở trong chi thức giấc, hoảng hốt ra mở cổng đưa em vào với mẹ…
Giã từ những ngày trời đầy nắng gió, cát trắng khô cằn ở vùng đất Hải Lăng, gia đình em trở về Quảng Trị. Ba em không còn là chi trưởng cảnh sát. Chính những biến cố chính trị mang hơi hướng của tôn giáo ấy đã làm thay đổi cuộc đời của ba em. Trong những ngày gần cuối năm 1963, trên những con đường khắp tỉnh Quảng Trị, cũng như trên con đường Lê Văn Duyệt này, ngay cả đứa bé chỉ mới vài tuổi đầu như em phải nói rằng cảm thấy rất thú vị khi chui tọt xuống bàn thờ đặt ngay trên con đường cái trước nhà; hầu như nhà nhà ai cũng đưa bàn thờ Phật ra đường để đấu tranh Phật giáo. Đêm đêm, tiếng gõ mõ, tiếng phèng la, bất kì cái gì có thể gõ được ra âm thanh để kêu gọi nhau, kêu gọi đấu tranh, người ta cũng có thể làm hết. Tinh thần đấu tranh bất khuất của con người xứ Quảng, của những người dân đa số thuần gốc đạo Phật.
Xóm nhỏ của em yên bình là thế ấy…Có một cái giếng nước ở trước ngôi nhà ở ngay đầu ngõ, nơi ngày ngày người ta hay đến gánh nước, cũng là nơi tụ họp chuyện trò rôm rả của các bà, các chị. Nhà em nằm đối diện với ngôi nhà này. Những buổi chiều êm ả bị phá ngang bởi tiếng hò hét của trẻ nhỏ, mấy đứa con trai bị mẹ lột trần như nhộng, đứng tồng ngồng , tha hồ vung vẩy khi bị mẹ dội từng gàu nước mát lạnh vào người. Mấy lần em đi vào nhà mệ ngoại là bấy nhiêu lần em thích thú đứng ngắm mãi từng chùm ổi xá lị thơm phưng phức của nhà ông xạ. Em hay đứng ở bậc tam cấp cao của nhà mệ ngóng cổ nhìn sang bức tường rong rêu. Sau nhà mệ cũng có mấy cây ổi nhưng giống nhỏ hơn, trái vừa chua vừa chát; có cây nhánh lòa xòa sát mặt đất dễ hái hơn; chúng em thường hay vặt xuống hái chấm với muối ớt cay cay, vừa ăn vừa hít hà, thích lắm. Ông anh cả con cậu em thường hay hái hoa mít cắt lát mỏng, trộn chung với muối ớt, rồi gói lại, ép dưới tấm phản dày cộp của mệ. Cả mấy anh em đều vô cùng thích thú khi nhấm nháp từng lát mít cay xè. Nhà mệ ngoại em có một ngôi nhà trên, cao rộng hẳn so với gian nhà dưới, nếu đứng so nền nhà phải cao hơn cả đầu em. Ngôi nhà trên để thờ cúng ông bà; hoặc một khi nhà có việc, con cháu tụ tập về đông đúc. Ông em mất đã từ lâu, nghe nói từ hồi chạy giặc Tây. Mệ ngoại em từ đó cũng hay đi chùa Sắc Tứ làm công quả; có lẽ mệ em muốn tìm sự yên ổn ở chốn Cửa Phật. Hồi đó mệ em ở một phòng nhỏ ở nhà trên, còn nhà dưới dành cho gia đình các cậu mợ em ở. Phía sau nhà trên là giang sơn của anh trai em: anh Đinh Trọng Phúc; cậu em để cho anh một khoảng không gian riêng biệt, yên tĩnh để chú tâm vào học hành. Trước sân nhà, các cậu em trồng một số cây cảnh. Có cây mai vàng luôn nở hoa đúng vào dịp Tết; cứ khoảng gần ngày rằm tháng chạp, cả mấy người lớn trong nhà xúm lại trảy lá cho kịp nở vào ngày mồng một. Phải trảy như thế nào thật nhẹ nhàng để khỏi bị rụng mấy cái chồi non. Chỉ mấy ngày hôm sau, những chiếc nụ xanh nõn nà kia lớn dần, hứa hẹn nở ra những bông mai vàng óng. Hồi đó, em vô cùng thích thú khi đến ngày Tết đứng nhìn cây mai nở thật nhiều bông hoa 6 cánh với hi vọng năm nay nhà sẽ gặp nhiều tài lộc. Hầu như nhà nào cũng tạo cho mình một không gian xanh riêng biệt. Trước mặt nhà mệ là một ngôi nhà nhỏ, bên cạnh là khu vườn có mấy cây khế chua và có cả cây khế ngọt hiếm hoi, có mấy cây trứng gà, đến mùa chín đầy trái vàng lấp ló trên lùm cây. Bên cạnh nhà dưới của mệ là nhà bác Kinh, một hàng cây râm bụt vừa làm cảnh vừa làm hàng rào ranh giới giữa hai nhà, có một vài khoảng trống để tụi nhỏ có thể chui qua chui lại được. Chúng em thường bày những trò chơi vui nhộn ở đây.
Những ngày bé thơ đã trôi qua thật êm đềm. Giã từ tuổi ấu thơ, em bước vào năm học lớp vỡ lòng. Những ngày đầu tiên đi học háo hức lắm. Mẹ mua cho em mấy tập vở, một số đồ dùng học tập, em loay hoay suốt cả đêm chờ sáng đầu tiên đến lớp. Lớp học của chúng em là một ngôi nhà khá cao ráo và rộng rãi, nằm trong khuôn viên trường nữ tiểu học. Em đã học để biết đọc, biết viết hết hai mươi mấy chữ cái ở tại lớp học này. Từ nhà đến trường học, đoạn đường không xa lắm, chỉ đi bộ qua mấy ngôi nhà, đến khuôn hội, đi một đoạn nữa về xóm Heo, rồi rẽ trái là đến ngay trường học. Gần xóm Heo có mấy ngôi miếu cổ. Em nghe mẹ kể lại chuyện ngày xưa mẹ cùng mệ ngoại mỗi lần đi qua ngôi miếu là mẹ đi thật nhanh, nhắm mắt lại không dám nhìn vào bên trong, vì nghe người ta đồn đại trong đó có ma quỹ. Đối diện với con đường dẫn vào xóm nhà em là đường vào cổng hậu thành Đinh Công Tráng. Đi trên một đoạn đường cầu cong cong là đến chân cổng thành. Phía dưới bức tường thành là hào sâu đầy những chùm hoa lục bình tim tím. Việc ra vào thành thường ngày của những con người nơi đây vẫn bình thường, mỗi khi màn đêm vừa buông xuống, họ đóng ngay cửa thành lại. Cho đến một ngày cuối năm 1967, sau một đêm dài đầy tiếng súng giao tranh, sáng hôm sau, mọi người bất ngờ khi nghe tin đêm hôm trước những người CM đột nhập giải phóng tù trong lao. Kể từ biến cố đó, cửa thành bị đóng chặt lại, rào kín thép gai từ con đường dẫn vào cầu cho đến tận cổng thành. Vậy là chấm hết mọi sự liên lạc, ra vào trong thành và ngoài dân từ cổng Hậu này.
Không khí chiến tranh đã lẩn khuất đâu đó. Từ cuối xóm là những cánh đồng, là dòng sông quê nhưng em chưa một lần được đi đến. Dưới ánh mắt trẻ thơ nhìn về khung trời đó thấy một vẻ gì u ám khi nghe những gì mọi người thêu dệt nên: chốn ấy không bình yên...Em không còn ngôi nhà thân yêu: nó đã bị đổ nát ngay sáng mồng Một Tết Mậu Thân vì cuộc giao tranh mà phần lớn là do súng đạn từ trên cửa thành nả ra. Nhà mệ em đã lần lượt mất đi những người thân trong cuộc chiến: một người mợ không chết vì súng đạn mà chết vì nhiễm vi trùng uốn ván khi tìm đường dẫn đàn con vượt rào nhà hàng xóm để chạy tắt lên chợ tỉnh trong buổi sáng mồng một ấy ; năm sau, một người cậu đã ngã xuống vì viên đạn lạc oan nghiệt; người cậu khác là một sĩ quan đã mất vào năm sau nữa khi hành quân trên sông Vàm Cỏ; …mệ ngoại em đã bao lần khóc vì những mất mát này. Các cậu, mợ, cả ba đứa em trai bé bỏng của em đều nằm yên nghỉ trong nghĩa trang bên cạnh chùa Ái Tử; nhà em muốn người thân mình về nằm gần chốn cửa Phật để ngày ngày được nghe tiếng chuông chùa ngân nga...
Viết về những người xa quê
Dòng sông Thạch Hãn
Đây là lời nhắn gởi của một người anh:“…Nhớ viết về
trường tiểu học , phố xá và phường đệ Tứ nữa đi, còn có bãi cát đầy hoa cải vàng
bên bờ sông Thạch Hãn nữa. VTT”
Tôi cứ nghĩ về điều này và có lần trên đường từ Phan
Thiết về, ghé nhà hỏi anh Nguyễn Lam, phải chăng anh VTT là người ở xóm Đệ Tứ
mình mà hồi nhỏ tôi không biết?- Không phải, VTT ở bên kia bãi Nhan Biều. Em có
nhớ xóm Đệ Tứ, con đường Lê văn Duyệt không? Nhà anh bên cạnh khuôn hội đó. -Nhớ
chứ, hồi đó em là oanh vũ, hay theo mệ đi chùa, có đi chùa Tỉnh Hội nữa. -Ngoài
đường vào xóm, bên trái là nhà ông Xạ Lịch, có cái giếng khơi, vào nhà anh Cư,
cậu em, tiếp đó là nhà bác Kinh, mẹ Hường…rồi đến khu chiêu hồi, nhà chú Vân
chạy xe… Em nói thêm, còn có nhà đứa bé bị bệnh, đầu to, mắt mở thao láo, suốt
đời chỉ nằm trên giường thôi; đầu đường bên
này là nhà em, rồi đến nhà chú Chốn chạy xe, nhà chú Hưu, nhà anh Quang ông
Thệ, nhà chú Ba…vào nữa là bãi tha ma. Em còn nhớ hai đứa em chị Hường còn có
tên gọi ở nhà là Chó con, Chó nậy nữa đó. Vợ chú Hưu chết rồi, tội nghiệp, vợ
chú bị bệnh mất trí, hình như chết trong Trận Cầu Dài, trên Đại lộ kinh hoàng
thì phải; gia đình chú Hưu ra tận Phú Quốc, chú lấy vợ lại, giờ chú cũng chết
rồi; đàn con chú sau đó đã vượt biên qua Ca Na Đa hết.
Về những gì ngày xưa trên quê hương? Hoài niệm để mà
tưởng nhớ, để mà quay quắt! Điều đó làm tôi cứ nhớ da diết về khu xóm nhỏ, nơi
ngày xưa, thuở ấu thơ, gia đình tôi đã ở
một thời gian khá lâu.
Đúng thế. Ký ức về quê hương với những hình ảnh khá mờ
nhạt, tôi phải nhặt nhạnh để mà nhớ. Xa quê khi tôi là một đứa bé chỉ mới 12
tuổi, lứa tuổi chưa đủ lớn để có những kỉ niệm sâu sắc. Với lứa tuổi này, trong
khi trong đám bạn có đứa đã bắt đầu biết mơ mộng thì tôi còn quá vô tư, không
hề có một chút xao xuyến tình cảm. Với tôi, những năm tháng ở xóm Đệ Tứ đã đi
sâu vào hồi ức khó phai mờ. Tình cảm gia đình ngoại đã ủ ấm cho mấy anh chị em
tôi. Thương sao Quảng Trị khi trời đổ xuống biết bao cơn bão, mấy trận lụt cứ kéo
dài ! “Ông tha mà bà chẳng tha. Trời làm cơn lụt hăm ba tháng mười”. Trong tiết
trời se lạnh của mùa đông hoặc mấy hôm trời đổ mưa, trời mưa cứ kéo dài, từng
cơn bão đổ về mà có món cải kho cay cay mà ăn đủ thấy ấm lòng. Trong khi mấy
cậu, dì tôi chịu khó ra đường kéo những nhánh cây bị gãy, đem về làm củi đốt,
thì lũ nhỏ chúng tôi ngồi quây quần bên nhau chơi đồ hàng. Tôi cũng từng nghe
có người kéo được cả thân cây quế theo cơn lũ trôi từ nguồn về. Quế là giống cây
quý của rừng, vị cay cay, ngọt ngọt, tôi đã từng nhấm nháp và nhớ mãi hương vị
của nó. Những ký ức còn ghi đậm trong trí nhớ nhỏ nhoi của tôi về quê ngoại là
những buổi đi chùa với mệ ngoại ở khuôn hội đệ Tứ trên đường Lê Văn Duyệt, đây
là con đường đối diện với cổng hậu cổ thành Đinh Công Tráng. Là oanh vũ, cô bé
với áo đầm phật tử, nhí nhảnh ngây thơ, cùng các anh chị với tấm lòng mộ đạo.
Sau này, khi tôi giã từ xóm nhỏ lên ở chợ tỉnh, vào học trường Trung học Nguyễn
Hoàng, tôi lại tiếp tục tham gia đoàn học sinh phật tử do thầy Phan Văn Cẩn phụ
trách. Những chuyến đi cứu trợ đồng bào mình trong cơn hoạn nạn thiên tai do
lụt lội gây ra đã gieo vào tâm hồn tôi lòng nhân ái, tôi không biết gì đến sự
hiểm nguy có thể xảy ra trên đường đi…
Đầu tiên, tôi
xin kể về mợ Chở. Mợ Chở, người vợ cả của cậu tôi, nghe nói quê mợ ở Phò Trạch,
Mỹ Chánh, chỉ thế thôi, tôi không biết gì nhiều hơn về người thân của mợ. Hầu
như thân phận của những người phụ nữ khi về làm dâu nhà mệ ngoại tôi đều như
thế, cuộc chiến đã đẩy đưa, làm những người dâu của mệ ngoại tôi, từ đó xa quê
mãi, không hẹn ngày trở về….
Mợ Chở tôi là người dâu cả trong nhà. Mợ lo toan mọi
chuyện trong nhà mệ ngoại. Sau này, mệ ngoại tôi qua chùa Sắc Tứ để làm công
quả, công việc nhà hầu như giao phó cho mợ. Tết Mậu Thân, khi vượt rào chạy
lánh nạn, mợ Ga, người vợ thứ của cậu tôi đã bị nhiễm vi trùng uốn ván, vết
thương ngặt nghèo đã cướp mất người mẹ của sáu đứa con nhỏ dại; không cần theo
lời trăn trối của mợ Ga, mà mợ Chở cũng tự nguyện coi đàn con mất mẹ này cũng
giống như con mình, không để cho chúng chia đàn xẻ nghé. Vậy là hai đàn nhập
một, mợ tôi có đàn con đông đúc đến cả mười đứa. Mợ tôi đã bỏ lại đằng sau một
quê hương mà lắng sâu trong tâm hồn là những nỗi đau thầm không hề thổ lộ cho
ai hay biết. Thuở đó, người phụ nữ một khi đã đi lấy chồng, xuất giá tòng phu, theo
quan niệm đó, mợ theo về nhà mệ ngoại
tôi, cuộc đời đã đẩy đưa mợ tôi ngày càng xa quê, xa mãi người thân. Cậu tôi
sau ngày qua Mỹ, bị nhuốm bệnh, cậu trở
về Xuân Sơn, nơi có mợ tôi, cả đàn con lo lắng cho cậu trong những ngày cuối
đời. Tôi không biết có khi nào mợ tôi chạnh lòng khi nghĩ về số phận của mình? Đã
mấy lần lên thăm mợ, nghe nói mợ đã bỏ ăn, người ốm o gầy gò, vậy mà mợ cũng
vượt qua. Qua được cơn bạo bệnh, mợ vẫn tiếp tục ăn uống kham khổ như thói quen
thường ngày. Mợ hình như vui hơn khi thấy bà con lên thăm, nhất là hôm đám cưới
đứa cháu gái. Mợ thương đứa cháu mồ côi, con của người con trai út của mợ đã
chết trong một tai nạn giao thông vào ngày mồng hai Tết năm 2004. Không biết
bao nhiêu nỗi đau mợ đã nén lại trong lòng. Mợ đã nói đùa với tôi rằng bao giờ
mợ chết thì hãy lên đưa mợ về với cậu. Đã hơn một lần tôi lên Xuân Sơn, con
đường này, tôi lên thăm gia đình cậu mợ lúc cậu ở Mỹ về và cả khi cậu ra đi mãi
mãi.
Tôi có mấy người cậu đều hát nhạc tiền chiến rất hay,
rất truyền cảm. Phải nghiệm ra một điều là những người sinh thời kháng chiến
chống Pháp, có đi Việt Minh hay không, đa số họ đã trải qua những ngày ở chiến
khu, tuổi thanh niên, tình yêu quê hương, tình yêu gia đình,…đã quá thấm sâu vào
tâm hồn, họ đã cảm nhận cái chất sâu lắng của bài bài hát nên họ hát rất hay.
Các cậu tôi hát hay lắm! Nhất là những ca khúc tiền chiến.
Chùa Sắc Tứ ngày về
Sùng Nhơn, miền quê xa
Sông La Ngà
Tôi đã có một vài chuyến đi về thăm lại Sùng Nhơn, Đức Linh.
Trong mấy lần về đây, hầu như có gần đủ các anh chị của anh, còn tôi là người thay thế cho anh trong gia đình bên nội. Không có anh nhưng những kỉ niệm về anh, về cuộc sống đầy gian khổ trong mấy năm trời ở vùng đất nghèo khó này cứ theo nhau hiện về. Mọi người thay nhau kể chuyện ngày nào còn theo đội sản xuất ra đồng lao động. Công sức làm ruộng, cấy lúa, nhặt cỏ … được tính công và cuối vụ được trả bằng vài thúng lúa. Chẳng qua một thời để nhớ, để tưởng niệm quá khứ và tự hào vì mình còn đứng vững trong thời kì bao cấp ấy.
Tôi không hiểu sao vào lứa tuổi thanh niên, tôi có đủ sức khỏe và nghị lực đến như thế! Năm 1978, tôi đã cùng đoàn người lên khai phá khu rừng Bắc Ruộng, để cho hôm nay, đây trở thành một khu đông dân cư. Mùa hè năm sau, từ trường sư phạm Phú Long, tôi cùng anh lên xe về Bắc Ruộng. Hồi này, xe cộ hiếm hoi, việc đi lại rất khó khăn, chờ đợi mua được vé phải mất nhiều thời gian. Chiếc xe chạy bằng than ì à ì ạch trên chặng đường đất đỏ lầy lội, ngồi cạnh thùng than mà thấy người nóng hầm hập, mồ hôi đổ giọt, có nhiều lúc chúng tôi phải xuống xe, tài xế nóng lòng ngồi trên cabin rồ máy, còn đàn ông, thanh niên phụ nhau đẩy chiếc xe qua chỗ bị sụp lầy. Đây là núi Tà Pao, chỉ còn một quãng nữa là đến Bắc Ruộng. Bến xe là bãi đất trống, vắng ngắt như tờ, quanh đâu đó chỉ một vài ngôi nhà tôn mái lá kè lụp sụp. Chúng tôi mang xắc lên vai, chẳng có gì ngoài vài món quà đơn sơ đem về thăm gia đình; chuẩn bị tinh thần lội bộ, nghe chừng gần 30 cây số tính từ đây về đến Sùng Nhơn. Vừa đi tôi vừa quan sát hai bên đường. Xung quanh vẫn còn lắm trảng rừng, nhà cửa thưa thớt, đường lộ thật vắng vẻ, ít xe cộ và người qua lại. Trên đường đi, thỉnh thoảng, chúng tôi gặp một số dân địa phương, tiếng nói như người dân tộc rất khó nghe; tôi hỏi và được biết đó là người dân gốc ở đảo Phú Quý, Phan Thiết, vào đây sinh sống. Trời chiều đã xế bóng, mồ hôi nhễ nhại, bước chân chúng tôi vẫn bền bỉ trên con đường dài băng qua xã Nghị Đức, Mé-Pu…Vừa đi vừa trò chuyện nên cũng quên đi sự mệt mỏi, lâu lắm mới dừng lại, ngồi xuống ven đường xoa bóp cho đôi bàn chân bớt tê cứng. Đi mãi cho đến khi trời vừa sập tối chúng tôi mới về đến nhà.
Tôi đã từng nghe anh kể vào thời gian đầu mới lên xứ này, anh vào rừng chặt tre về bán ở chợ Vỏ Su. Khi bơi qua sông La Ngà, anh ôm mấy cây tre, dựa vào sức nước để vượt qua bên kia bờ. Số tiền bán tre, anh đem về đong gạo nuôi gia đình. Anh còn đưa cho tôi xem mấy vết sẹo còn in rõ ở trên trán và cánh tay, vì một hôm bị tai nạn, do không có kinh nghiệm khi đi rừng. Mùa hè năm sau, anh và người chị cả làm đơn đi học sư phạm, gọi là để thoát ly, để thay đổi cuộc đời, thoát khỏi cảnh khổ. Thời gian đầu và mãi về sau này, anh hay bị chứng đau nửa đầu, cũng có thể cơn bệnh ngặt nghèo đã ngấm vào người? Cuộc đời anh thật ngắn ngủi, chưa đủ để làm hết những dự định đang còn dang dở…Anh để lại cho tôi tiếp nối trên con đường anh đã chọn.
Sùng Nhơn là miền quê mới của người dân Quảng Trị. Đây là một vùng quê nghèo, nằm cuối cùng của tỉnh Bình Thuận và gần giáp với tỉnh Lâm Đồng. Phía tây là những dãy núi cao xa tít chân trời. Dân ở đây có thể đi tắt theo con đường từ Sùng Nhơn ra đến Định Quán, Phương Lâm, rồi từ đó lên Bảo Lộc, Lâm Đồng. Người ta bảo “Đất lành chim đậu”, điều đó cũng đúng, vì những năm 1977, 1978 là năm thiếu đói, con người phải biết dựa vào đất để mà sống; cảm ơn trời đất đã cho con người có cái để ăn qua những năm tháng cơ cực sau chiến tranh. Dân tứ xứ về đây định cư theo chính sách di dân, khẩn hoang – kinh tế mới. Giờ đây, hai bên đường, thay thế những trảng rừng là xóm làng, nhà cửa khá khang trang, xa kia là những đồng lúa xanh rì xen kẻ nhiều nương bắp trái vụ. Vì đây là một vùng đất trũng nằm gần núi nên đầu mùa hè thường xảy ra những trận mưa dông kèm theo một vài cơn sét đánh chết người. Nhà nước đã cho xây những cột thu lôi nằm chơ vơ giữa đồng ruộng. Ngày trước, học sinh đi học trường cấp 3 ở Vỏ Su, hôm nay ngay tại xã Mé-Pu đã có một trường Trung học phổ thông, làm cho các em đỡ vất vả, khỏi phải đi học xa nhà. Đường sá đã được làm mới, tuy nhiên vẫn còn những đoạn đường còn quá hẹp, gồ ghề lắm ổ voi, ổ gà.
Quanh năm, có một số người dân sống bằng nghề câu cá trên đồng hoặc cất vó ven sông. Một dịp về ngang Vỏ Su, chúng tôi ghé vào một quán ven đường để thưởng thức món cháo cá lóc. Mùa mưa, nước lủ tràn về trên sông La Ngà, nước tràn lênh láng vào các ruộng đồng. Dòng sông ở đây hẹp và sâu, nhìn thấy dòng nước đỏ lừ lừ chảy ùng ục cứ tưởng tượng bao nhiêu nước trên rừng theo nhau tuôn về xuôi. Có khi tôi nghe người ta kháo nhau đâu đó trên sông La Ngà có cá sấu, không biết thực hư như thế nào. Từ Sùng Nhơn đi qua Vỏ Su có khi người ta phải đi đò rất là nguy hiểm, nhất là vào mùa nước dữ, dòng nước xoáy hung tợn có thể làm cho chiếc đò lật úp, chìm nghỉm.
Đầu mùa hè năm 2009, tôi đi công tác ở Nam Chính, Vỏ Su, tôi có ý định buổi tối hôm đó về thăm anh họ tôi ở Sùng Nhơn. Chúng tôi không đi về đường Bắc Ruộng mà đi theo đường Lạc Tánh - Huy Khiêm- Vỏ Su. Ghé Lạc Tánh, ngồi nghỉ ở một quán nước bên đường, thật ngạc nhiên khi nhìn thấy những chú chuột đồng nghe nói là béo ngậy đang được chưng bày như món đặc sản, món ruột của dân nhậu. Tôi đợi đứa cháu chồng(nhà ngay thị trấn Lạc Tánh này), gặp nhau tại quán, cùng uống nước chuyện trò. Mới đầu mùa mưa mà dân ở đây trồng bắp đã thu hoạch, từng thúng bắp chín bày bán dọc đường. Tôi hỏi đứa cháu về món chuột đồng kia. Cháu tôi cười cười trả lời: “Ai biết đó là chuột đồng hay chuột nhà, làm sao mà phân biệt được?”.
Tôi không biết Huy Khiêm ở đoạn nào trên chặng đường mà tôi đã đi qua? Tôi đã quên mất, không nhớ rõ nơi mà ngày trước vào năm 1976, 1977 sau giải phóng , ba tôi đã gần hai năm sống tại trại cải tạo Huy Khiêm này. Một vài lần tôi tìm lên thăm nuôi ba tôi. Được phép của cán bộ trại giam, tôi vào thăm ba. Ông vẫn nụ cười hiền lành, hỏi thăm về gia đình, nhận quà thăm của nhà mà rưng rưng nước mắt. Tôi hỏi ba làm những công việc gì, có nặng nhọc lắm không? Ba tôi kể rằng ông được giao cho việc bốc hạt đậu phụng, thứ nông sản do chính tay các anh em lao động, làm ra. Giờ đây ông còn được giao việc chăn giữ mấy con bò của trại. Ông hay dắt chúng ra gần hàng rào cho ăn cỏ. Có khi vài người dân cảm thương khi nhìn thấy liền dúi vào tay ông ít tiền. Ông không biết dùng để làm gì, để dành lại khi tôi lên thăm ông gởi về cho mẹ tôi. Khi vào rừng, có vài buồng chuối sắp chín, ông tìm cách bẻ xuống, đem dú vào bụi cây đến khi chín hẳn đem về cho anh em ăn dần. Ngày mồng bốn Tết năm 1976, tôi lên thăm ba tôi. Có sự trùng hợp ngẩu nhiên hay linh tính báo điều không lành, mà ba tôi đưa cho tôi gói đồ gởi về nhà, trong đó có một chiếc khăn trắng, tôi vô tư lấy khăn cột lên tóc mình. Ai ngờ đó cũng là ngày ông nội tôi ở Huế sắp từ giã cõi đời khi bên cạnh không có người con trai trưởng, mà người con ấy chính là ba tôi, đang còn ở trong trại. Tôi cứ suy nghĩ mãi về điều này, con người chắc chắn có một mối linh cảm, ràng buột với nhau, nhất là những người thân thích ruột thịt. Ba tôi khi biết tin ông nội mất chắc đau khổ, dằn vặt vô cùng! Rồi cuối cùng ba tôi cũng rời trại, trở về với gia đình, tuy nhiên sức khỏe của ông về sau không được tốt lắm.Trại Huy Khiêm đã gắn với bao kỉ niệm vui buồn của những người như ba tôi đã từng một thời làm việc cho chế độ cũ, còn sau này qua bao nhiêu năm tháng cố gắng phấn đấu cải tạo để trở về đời thường, sống hòa nhập với xã hội; nhưng giờ thì đa số những người ấy đã già nua hay có thể không còn sống trên cõi đời này nữa.
Ra đồng, sợ sét đánh
Như
ý định, tôi ghé về Sùng Nhơn. Ngang ngã ba, tôi đã nhác thấy anh tôi đứng chờ.
Tôi chia tay người bạn ở đó, hẹn sáng hôm sau gặp nhau tại chợ để về Vỏ Su.
Người bạn tôi cũng tiện dịp về thăm nhà em trai ở Đa Kai, cách chừng vài cây
số. Đa Kai là vùng đất mới khai hoang sau này, là nơi đang khai thác
nguồn tài nguyên nước khoáng. Tôi ở lại một đêm với gia đình người anh họ, con
cậu tôi. Khoảng ba giờ sáng, khi trời còn tối đen như mực, anh tôi đã đi ra bờ
sông. Ngày nào cũng như thế, anh ra sông gỡ số cá mắc lưới mà chiều hôm trước
anh giăng câu. Hôm nay, anh bắt và bán cá được mười mấy nghìn, còn mớ ốc bươu
anh lượm ở ruộng được lưng giỏ, đem về băm nhỏ làm thức ăn nuôi bầy vịt. Anh
còn than vãn năm nay nạn chuột đồng phá làm mất mùa lúa lấy đâu ra tiền lo cho
con ăn học. Chăn nuôi, trồng trọt, làm ruộng, bắt cá đã biến anh trở thành một
nông dân thực sự.Thấy người anh gầy gò, đen đủi vì dầm mưa dải nắng, tôi rất
mủi lòng. Anh là con trai cả của cậu tôi; gia đình cậu tôi ngày trước ở Quảng
Trị thuộc vào hạng công chức, có một cơ ngơi tương đối khá. Chiến tranh đã cướp
mất tất cả. Giờ đây hầu hết các con của cậu tôi đều lam lũ, sống bằng các nghề
lao động là chính.
Cột thu lôi
Đất đai xứ này màu mỡ, người ta trồng một năm mấy vụ lúa. Hầu như nhà nào cũng có vài trụ tiêu trồng trong khu vườn. Dây tiêu xanh um leo lên trụ bằng thân cây gỗ, dần dà gỗ rừng khan hiếm họ thay thế bằng mấy trụ gạch. Khí hậu có vẻ khắc nghiệt hơn, ban ngày trời nóng như đổ lửa, về đêm lại rất lạnh, không có những cơn gió mát mẻ, dễ chịu như mấy vùng ven biển. Người dân Quảng Trị mình không chịu an phận, một số lại đi tìm vùng đất hứa: đó là Xuân Sơn, Ngãi Giao, Bình Giã…của tỉnh Bà Rịa, Vũng Tàu; là Trị An, nơi phát triển nhà máy thủy điện của tỉnh Đồng Nai, ngày xưa còn lừng lẫy chiến khu D; đi đâu cũng thấy dân xứ mình lưu lạc đến ở và tìm mọi cách để sinh sống. Phải nói rằng gia đình cậu tôi rời chốn này về Xuân sơn làm ăn thì cuộc sống có phần tốt đẹp hơn là ở Sùng Nhơn. Còn lại chỉ hai người con của cậu; tôi thật ái ngại khi nhìn thấy cuộc sống của các anh chị: vì tôi có cảm giác như đây là tận cùng của sự khốn khổ!
Vườn tiêu
*Khi
kết thúc bài viết này là vào đầu mùa hè tháng 6 năm 2010-vợ chồng người con
trai cả của anh họ tôi, cả hai đều là giáo viên trường trung học cơ sở, hiện
đang dạy ngay tại quê nhà Sùng Nhơn- chiều này, sau một chuyến đi thăm bà nội ở
Xuân Sơn, ghé về thăm tôi. Anh tôi có cả thảy 7 người con( dân số hèn gì tăng
vọt là phải!), trong đó còn có một con gái đang học đại học xã hội-nhân văn,
khoa báo chí, hy vọng sau này cậu cháu xin cho về làm tại Phan Thiết; một con
gái sau hai năm bền chí mới học xong bổ túc, có bằng trung cấp, đang xin làm
việc ở khu công nghiệp Biên Hòa; một con gái khác cũng làm công nhân tại đó;
một con gái đã có gia đình, ở gần nhà, ngoài ra còn có hai đứa con đang học
trung học phổ thông. Anh tôi vẫn có niềm tự hào khi nói với tôi về truyền thống
hiếu học của gia đình, khiến bà con hàng xóm cũng phải nể phục. Âu cũng là một
phần kết có hậu phải không? Tôi tin chắc là như thế! Mùa bão muộn
Năm nay, mùa
mưa đến chậm tức là báo trước một mùa mưa bão cuối mùa sẽ đến muộn. Đến muộn không
có nghĩa là những cơn bão sẽ ít đi và mức độ nguy hiểm, sự tàn phá sẽ ít hơn!
Sông Dinh là
một nhánh của sông La Ngà, dòng sông này thường ngày vẫn hiền hòa, chảy xuôi dòng
về cửa biển gần cầu Tân Lý, đổ ra biển Đồi Dương, Tân Long. Vào đầu tháng ba,
tháng tư hằng năm, ven làng Phước An, nơi sông Dinh chảy ngang qua, có một quãng
dòng sông nước cạn khô, lộ ra từng hàng đá cuội, to nhỏ đủ hình thù, người ta có thể lội qua được bờ bên kia. Những
lúc này, mấy đứa trẻ chăn bò tha hồ rủ nhau đi bắt cá. Chúng tha hồ vin những cành
cây lòa xòa sát bờ sông, để mà chơi đùa, tắm mát. Người dân gọi đây là Suối Tiên
và hay chọn làm địa điểm để dã ngoại, tránh nắng, những cơn nắng vào đầu mùa hè
thường rất là oi bức. Mấy đứa trẻ trong
xóm cũng đã nhiều lần kéo nhau qua cầu Phước An để đi hái ổi; bao nhiêu cây ổi
mọc hoang ven sông là chúng vin xuống hái, bỏ đầy túi áo, túi quần mang về nhà,
mặc dù ăn không được, mặc cho bị trận la mắng của người lớn. Xa hơn một đỗi, có
một đôi chỗ sâu quá đầu người, đây cũng là mối nguy hiểm luôn luôn rình rập. Thằng
Đăng, mấy đứa trẻ hay gọi nó là “Đăng heo”, có lẽ vì nó mập mạp hơn so với mấy đứa
khác. Thằng Đăng, sau một chuyến đi chăn bò, không bao giờ trở về nữa, vì nó đã
bị ngã xuống hố nước sâu, bạn bè không thể nào cứu kịp. Tôi không thể quên được
ánh mắt thẩn thờ, nỗi đau của người mẹ mất con…
Dòng sông không
phải bao giờ cũng hiền hòa như thế!
Mùa mưa lại
trở về và càng về sau ngày càng hung hãn hơn, ví như bao nhiêu nước mưa đổ từ
trên nguồn, cây rừng không giữ nỗi đã tuôn ào ạt về biển. Một trận mưa bất ngờ
cuối mùa năm 1999 đã gây nên trận lũ quét kinh hoàng.
Mưa mấy ngày đâu
trên nguồn Đức Linh, Tánh Linh. Bầu trời cứ âm u, mây đen giăng kín, không thấy
đâu là ánh nắng mặt trời. Rồi mưa đột ngột đổ về, càng lúc càng to dần, mưa không
ngớt, mưa ngày càng nặng hạt.
Buổi sáng, người ta vẫn đi làm, người lớn, trẻ
nhỏ đều qua bên kia cầu, đi vào sâu trong rẩy. Họ trồng trọt, có kẻ lập trại để
chăn nuôi bò, heo, gà và làm nhà tạm ở
trong đó. Rất đông người đánh xe bò, đi vào ngày càng xa hơn. Họ làm nghề
đẽo đá, từng khối đá to được đẽo thành viên khá vuông vắn về bán cho chủ thầu
hoặc chất đống trước sân nhà chờ xe đến chở. Đây trở thành nghề chính cho người
dân Tân Tạo và Phước Bình, kể từ khi đất đai cạn chất màu mỡ, không còn cho họ
những vụ mùa thu hoạch tốt như trước đây. Những người phụ nữ theo vào bãi đá, họ
ráng sức, dùng búa để đập những tảng đá thành đá nhỏ kích cỡ bốn sáu. Mấy đứa
trẻ cũng theo vào trại để chăn bò. Vào mùa
hè, công việc học hành chúng để sang một bên, phụ việc cho ba mẹ để kiếm tiền
lo cho năm học mới. Dù vất vả nhưng vẫn thấy chúng thật hồn nhiên, khi nào cũng
thấy đùa nghịch, chạy rượt đuổi loăng quăng
trên đường. Theo sau mấy chiếc xe là những con bò bước đi chậm rãi. Ngày qua ngày, cuộc sống trầm lặng
cứ thế tiếp diễn. ..
Mãi đến trưa, trận mưa vẫn chưa dứt. Người ta có vẻ lo lắng khi dòng nước
trên sông tuôn về quá nhanh. Lũ rồi, bà con ơi! Chẳng mấy chốc, nước đỏ ngầu sủi
bọt, réo sùng sục, kéo về làm ngã rạp các bụi cây hai bên bờ. Một số người bên kia sông lo xa,
nhanh chân trở về. Ngôi nhà nằm lẻ loi gần chân cầu thoáng chốc đã bị dòng nước
nhấn chìm. Vẫn còn một người đàn bà trong ngôi nhà đó. Cây cầu gỗ khá vững chắc nay đã nằm trong biển
nước. Vậy là còn nhiều người kẹt bên kia sông không trở về bên này sông kịp rồi.
Mấy chiếc ca nô của huyện đã nhanh chóng lên đường, chạy ngược với dòng nước lũ
cuồn cuộn. Họ tìm cách cứu người đàn bà còn trong ngôi nhà ở sát chân cầu kia.
Nước lên nhanh quá, không ai trở tay kịp. Cứu được bà ta cũng rất vất vả, mấy
người cứu hộ phải tìm đủ mọi cách, quăng dây vào cho đụng nóc nhà; còn người đàn
bà ngồi lấp lửng trên nóc nhà, hai tay bám vào cây gỗ, đang còn run lẩy bẩy vì
lạnh. Dòng nước xoáy mạnh cứ dạt sợi dây ra rất khó nhọc. Cuối cùng, họ cũng đã
quăng được sợi dây, tìm cách áp sát chiếc thuyền máy để cứu được bà. Khi ca nô
trở vào bờ, mọi người dân ai cũng thở phào nhẹ nhỏm, họ reo mừng. May có đội cứu
hộ đến cứu kịp chứ không thì bà cũng bị
nước lũ cuốn trôi ra biển. Mọi người xúm xít xung quanh, mang chăn ủ ấm cho bà.
Trời cũng về chiều, rồi tối dần, hi vọng còn quá mỏng manh. Biết bao giờ trời mới
hết mưa, nước rút để bà con bên kia sông trở về nhà đây? Những người thân nhấp
nha nhấp nhỏm, lòng nóng như lửa đốt, họ lo lắng vì còn người thân kẹt lại bên
kia bờ sông. Chỉ qua một đêm, sáng hôm sau, mọi người thức dậy sớm chạy ra xem
cầu . Nước đã tràn lên cả mấy nhà đầu xóm, chiếc cầu gỗ đã bị cuốn phăng đi mất
rồi, nó trôi dạt về đâu dưới đó. Cả cây
cầu sắt và chiếc cầu xây vững chắc như cầu Tân Lý cũng bị dòng lũ hung tợn cuốn
phăng đi mất. Mấy ngôi nhà gần cầu Tân Lý
cũng đã bị sập đổ cả xuống lòng sông. Nước lũ đã làm gãy cầu Tân Lý, cắt đứt bên
này và bên kia bờ sông, nơi cuối dòng sông Dinh, trước khi đổ ra biển Đồi Dương.
Trên đường về La Gi, nước tràn lênh láng qua đường lộ, ngập bạc trắng cả
cánh đồng Tân Thiện. Một sự tàn phá thật khủng khiếp. Máy bay lên thẳng bay đi tiếp tế, cứu trợ cho
những người còn kẹt lại tối hôm qua. Trên máy bay, người ta thả mì tôm, vài thứ đồ ăn liền, nước uống xuống. Đợi bao giờ nước sông rút bớt, họ mới
tìm cách trở về nhà, đó là điều mong mỏi duy nhất của những người còn bên kia bờ
sông.
Rồi dòng nước hung hãn kia cũng nguôi dần cơn thịnh nộ, bao nhiêu nước đã
đổ dồn ra biển Đông. Không còn chiếc cầu gỗ bắc qua sông, họ tìm cách qua về bằng
cách đu trên mấy sợi dây cáp treo nối từ bên này bờ qua bên kia bờ. Đã một tháng
trôi qua, phương tiện đi lại của người dân vẫn bằng cách ấy trong lúc chờ nhà nước
bắc lại chiếc cầu. Chiếc cầu thường ngày là huyết mạch cho bao người dân, giờ đây
họ lại càng nóng lòng chờ đợi cầu nối lại hai bờ. Cũng một buổi chiều ảm đạm,
tin tức người ta lan nhanh: thằng Tiến, con trai bà Đợi, hàng xóm nhà tôi,
trong lúc vượt qua sông để về, đã bị dòng
nước cuốn đi mất. Thôn xóm xôn xao cả lên vì tin dữ này. Bà con thay nhau đi dọc
theo bờ sông để tìm. Ngay cả ngày hôm sau vẫn chưa tìm ra người. Tính từ quãng
sông này ra đến biển độ chừng gần mười km, họ sợ trôi mất xác ra biển là không
còn cơ hội. May thay, sáng sớm hôm sau, người dân ở xóm chài Tân Long bắt gặp được
thi thể thằng Tiến tấp vào cồn cát ven bờ.
Đám tang nó thật ảm đạm. Cứ ngỡ rằng lũ quét đã qua đi, không còn gì
nguy hiểm, nhưng phút chốc sơ sẩy là tai họa giáng xuống. Nếu như nó chịu khó đi
về xa hơn bằng con đường vòng, không liều lĩnh như vậy thì đâu có chuyện xảy
ra. Con nước hiền hòa nhưng cũng có lúc thật sự hung dữ…
Ai
cũng bảo xứ Hàm Tân là vùng đất ít bị những cơn bão cuối mùa ghé qua. Thường là
miền Nam ít bị bão lũ như miền Trung, nhưng có khi cũng phải hứng chịu cảnh thiên
tai như cơn bão số 5 năm 1997 ở Kiên Giang.
Năm 2006, sau một vài tuần nhập học, vào đầu năm học mới, nghe tin bão về,
dự báo sẽ trực tiếp vào Bình Thuận, đổ bộ ngay Hàm Tân, làm ai cũng phấp phỏng
lo sợ. Từ buổi sáng, nhà trường đã đóng cửa, cho tất cả học sinh nghỉ học. Ngay
chiều hôm đó, tôi vào chở mẹ ra nhà mình, để có gì thì cũng có thể bảo vệ, lo lắng
cho mẹ già. Trời tối dần, không gian im ắng lạ thường, càng về đêm thì tiết trời
có vẻ oi bức hơn. Theo dự báo thì khuya nay, cơn bão sẽ vào đến đất liền. Hơn 12 giờ khuya, bão thật sự đến rồi. Gió bắt đầu nổi mạnh hơn.
Tôi đứng trong nhà nhìn qua khung cửa kính, thấy cây cối bắt đầu lay động mạnh
hẳn lên. Mưa ập đến. Những cành cây nghiêng ngã. Mưa kèm theo những tia chớp liên
tục xé ngang bầu trời. Trong nhà không ai dám ngủ, cứ đứng ở cửa, lo lắng nhìn
ra ngoài đường. Thời gian đêm nay sẽ trôi qua chậm chạp, nặng nề. Không biết chừng
cơn bão này sẽ tàn phá những đâu, nhà mình có thoát khỏi không? Ngoài trời, mưa
gió vẫn tung hoành. Ngôi nhà này mới được xây khoảng vài tháng, có vẻ vững chắc
hơn trước sức mạnh của gió. Cũng may bão đi qua vùng này không mạnh. Chúng tôi cầu mong sao cho an lành,
mong trời mau sáng. Rồi gió cũng giảm dần. Khoảng gần sáng thì trời chỉ còn mưa
lất phất.
Trời sáng, ai cũng đổ ra đường xem cơn bão đã tàn phá những nơi nào. Vậy
là tâm bão đi thẳng vào Bà Rịa-Vũng tàu, còn Hàm Tân nó chỉ đi lướt qua. Tuy thế
mà dọc đường ven biển cũng biết bao nhiêu ngôi nhà trốc mái, cây cối đổ ngỗn
ngang.
Bây giờ vào cuối tháng Mười, cũng là mùa bão, những cơn bão đến muộn, kèm
theo mưa to, gây lũ lụt ở miền Trung. Tôi thấy những hình ảnh thương tâm của đồng
bào xứ mình, mà thấy đau lòng. Tại sao dân mình cứ mãi chịu cảnh thiên tai. Bao
nhiêu của cải, dè xẻn bấy lâu đã bị trôi theo dòng nước. Giữa biển nước ngập mênh
mông như thế, cái sống cái chết quá kề cận. Thương biết bao khi nhìn thấy những
cánh tay kêu cứu từ mái nhà trổ mái. Thương
sao những bà mẹ già đứng trên mái nhà chới với.
Lũ dồn, lũ dập như thế, mà cơn bão mạnh Megi, bão số 6 còn đe dọa đổ bộ
vào biển Đông ! Hướng bão đang đổ thẳng vào miền Trung…
Tháng 10 năm 2010
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)