Một chuyến đi về quê hương thật quá nhiều kỉ niệm. Phải nói rằng,
có bốn điều tuyệt vời trong một chuyến đi dài ngày: về thăm quê ngoại, quê nội,
dự hội trường và gặp mặt, cùng đi chơi với bạn bè. Trong thâm tâm tôi tự hứa
vào đầu mùa hè năm 2014 hoặc năm sau, tôi sẽ trở về một lần nữa.Tôi đã đặt mua vé tàu lửa
cho chuyến hành trình về quê trước cả tháng, ngay từ khi năm học còn chưa kết
thúc. Biết tôi gởi tiền ra Huế để nhờ mua cả vé tàu về, ai cũng bảo rằng tôi
quá lo xa. Tôi đếm từng ngày cho đến ngày lên đường. Có những đêm tôi thao thức
không ngủ được vì cứ nôn nao nghĩ đến ngày về quê sau bao năm xa cách, cả đến
40 năm dài đằng đẵng. Tôi chuẩn bị đầy đủ hành trang nhiều ngày đi, tất cả cho
một cái va li to kềnh, kể cả vài cái áo khoác dày để dành cho bà con mặc mùa
đông. Chắc khi trời đông giá rét hoặc mưa phùn lất phất, những ai mặc chiếc áo
ấm áp tôi tặng ắt sẽ nhớ đến tấm lòng
của tôi. Ngôi nhà tôi đi vắng không hẳn vắng vẻ, lạnh lẽo vì tôi đã nhờ được
người hàng xóm trông nom; đêm đêm có hai chị em song sinh qua nhà, các kênh
hình MyTV sẽ lôi cuốn chúng. Mai
đây, một mình tôi sẽ thong dong trên đường thiên lí, bỏ lại sau lưng những gì
lo toan, khiến tôi không có một mùa hè nào được thảnh thơi. Tôi thích đi tàu
lửa vì đối với tôi rất thú vị, tiếng còi tàu năm xưa như từng nhắc nhở những kỷ
niệm về quê nội.Buổi trưa ngày 20-6Mọi hành lí chuẩn bị đâu
đó sẵn sàng, tôi và dì ra đường đón xe bus. Như đã hẹn, chị chồng tôi đã có mặt
và ngồi chờ trên chiếc xe sắp sửa khởi hành. Xe bus tuyến đường La Gi- Phan
Thiết chạy theo con đường ven biển, từng làn gió mát mẻ dễ chịu thổi vào ô cửa.
Cảnh biển nơi đây tuyệt đẹp: một bên là bờ biển, sóng vỗ vào ghềnh đá thơ mộng,
một bên là những xóm chài vẫn còn giữ nét hoang sơ. Mũi Điện Kê Gà ở xã Tân
Thành nhìn từ xa thật hùng vĩ. Kia rồi là ngọn Hải Đăng giữa biển xanh mênh
mông, nơi đêm về có ánh đèn chói lòa định hướng cho tàu bè qua lại và cho cả
những ngư dân đang còn trên những chiếc thúng câu ngoài khơi xa. Tôi là người
dân địa phương nhưng chưa một lần đặt chân lên đến ngọn hải đăng này, trong khi
đó có những người khách du lịch từ phương xa tìm về đây, thích thú ngồi trên
thúng câu hoặc ghe máy để ra tận chân tháp, có khi họ mạo hiểm leo lên đỉnh
ngọn hải đăng chong chênh giữa sóng nước. Những khu resort nằm liền kề nhau chạy dài từ xã Tân Thành cho đến
xã Tiến Thành theo con đường ven bờ biển, nơi đó những khu nhà khang trang mới
được xây dựng, nằm lấp ló trong rừng dương râm mát. Chiều thứ tư ngày 20 tháng 6 năm 2012 Cả 3 người: tôi, dì và chị chồng tôi,
mỗi người đều mang theo 2 xách tay, vali; khi ở chợ Phan Thiết ra, còn đèo
thêm 5 thùng đồ và túi xách gồm nhiều trái cây thanh long, chôm chôm, bánh cốm
sữa, bánh rế. Đây là món quà của
miền đất Nam
Trung bộ đem ra biếu bà con mình ở quê và để cúng chùa. Từ nhà chị tôi ở chợ
Phan Thiết ra đến ga Mương Mán khoảng chừng hơn mười cây số. Chúng tôi gọi xe
taxi ra ga Bình Thuận lúc 16 giờ. Gần 19 giờ 30 phút, tàu đến, tiếng còi kéo
một hồi dài báo hiệu từ xa;
mọi người vội vã lên đúng toa của mình. Tôi là người lên sau cùng. Tàu lại tiếp
tục chuyển bánh trên chặng đường dài ra Bắc; dì và chị đã vào chỗ ngồi, còn tôi
phải sắp xếp từng thùng hàng xong, rồi mới yên tâm ngồi vào ghế. Trời tối hẳn
nên tôi không nhìn rõ mọi vật xung
quanh, thỉnh thoảng tôi chỉ thấy những hàng điện đường chạy ngược lại với đoàn
tàu. Càng về khuya, tiết trời càng lạnh, giấc ngủ chập chờn đến với tôi theo
bánh tàu chạy sầm sập trên đường ray… Chiều thứ năm ngày 21 tháng 6 Qua 20 tiếng đồng hồ mong đợi trên con
tàu SE6, thế rồi tàu cũng dừng bánh trên ga Đông Hà. Niềm vui như vỡ òa, chút
nữa thôi tôi sẽ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Tôi cố nén đi giây phút xúc
động, vì tôi đã về đây rồi. Có những ai đã đi đi về về biết bao nhiêu chuyến, nhưng
chưa hẳn đã có những cảm xúc giống như tôi. Vì vội vàng hay vì quá nôn nao mà
cả ba chúng tôi đã kéo đồ đạc chuẩn bị sẵn ở cửa xuống tàu ngay từ ga Diên
Sanh. May thay, cái va li kéo của tôi cũng như chiếc xe đẩy tiện lợi, nó còn
kéo thêm được hai thùng quà nặng trịch. Một vai tôi vác chiếc ba lô, trên tay
còn đèo thêm chiếc túi, một tay tôi kéo chiếc va li ra khỏi mấy đường ray để
vào hẳn bên trong. Tôi chia tay chị chồng ngay tại sân ga.Tôi gọi xe taxi cùng
dì về làng Nại Cữu, quê ngoại của tôi. Xe bon bon chạy trên quốc lộ ngược về
Quảng Trị, khắp nơi chỗ nào tôi cũng thấy những công trình xây dựng đang còn
dang dở. Tôi không thấy con đường vào chùa Sắc Tứ đâu cả. Bác tài xế giải thích
các cơ quan đã xây lên trước mặt nên từ xa không thể nhìn thấy quang cảnh ngôi chùa.
Thay vì chạy theo con đường mới An Môn về Sãi cho nhanh thì tài xế cho xe chạy
vào chợ tỉnh. Xe chạy qua cầu Ga, rồi quẹo vào đường Trần Hưng Đạo. Trường Bồ
Đề vẫn còn vết tích nham nhở, đổ nát do chiến tranh. Từ trường Bồ Đề về chợ sao
nhanh thế! Ngày hôm nào tôi đi bộ lên nhà cô Sâm dạy Anh văn ở tuốt trên này thấy
xa lắm mà! Cửa chợ đây rồi, nhưng vị trí thay đổi, không còn như trước, bên
phải đường Quang Trung. Bác tài, đó là ngã tư Quang Trung, Trần Hưng Đạo à? Bác
gật đầu. Nhà sách Tùng Sơn ở góc đường đối diện nhà ông Khiết nay là quầy thuốc
tây. Làm sao tìm lại khu chợ bao quanh bởi con đường Trưng Trắc, ở quanh đó những
ngôi nhà bạn bè, mãi mãi lưu giữ biết bao kỉ niệm thuở đi học trong ký ức của
chúng tôi? Đường Trần Hưng Đạo xưa kia dài
và rộng, sao giờ này hình như ngắn và thu hẹp lại. Bạn bè tôi đã từng về Quảng
Trị nói với tôi rằng thị xã mình giờ
nhỏ bé lắm, chỉ bằng lòng bàn tay, chạy xe một vòng là hết. Thật đúng như thế,
thuở bé với đôi mắt trẻ thơ thì mình thấy cái gì cũng to lớn, còn giờ mình lớn
lên rồi thì thấy cái gì cũng như thu nhỏ lại. Đoạn đường từ chợ về xóm cửa Hậu
thấy xa mòn mỏi, muốn đi về thăm mệ ngoại, tôi phải gọi xích lô để đi... Xe chạy
quá chợ, tôi nhác thấy thành cổ, cái tháp chuông cao cao. Cái vòng xoay nhỏ này
dẫn về đâu thế? Đó là con
đường mở rộng của xóm Heo ngày trước, nó chạy thẳng về các làng Bích La, Nại
Cữu…Tôi nhớ lại ngày Tết năm nào tôi và các anh chị họ, cả bầy lội bộ về làng
ngoại. Tôi góp nhặt lại trong trí nhớ tưởng tượng ra vị trí cầu Sãi, rẽ phải về
An Tiêm, con đường đất chạy dài phủ bóng hai hàng tre xanh mát rượi. Chúng tôi
về nhà dì Tưởng, bà con của mẹ tôi. Nhà dì ở gần bến sông. Khi vừa đến nhà, chỉ kịp chào hỏi xong là
chúng tôi chạy nhanh ra bến vung vẫy nước. Có khi bị nước bắn tung tóe ướt cả
mặt mũi, áo quần nhưng chúng tôi không giận lại còn cười đùa thích thú. Trưa,
chỉ ăn bữa cơm đạm bạc với dì mà tôi thấy lòng ấm cúng hơn trong ngày đầu năm
mới. Khi nắng chiều đổ dài trên các bụi cây, trên dòng sông trong veo, chúng tôi
giật mình vì đã đến lúc phải ra về. Trên con đường làng hồi sáng biết bao háo
hức, giờ cảm thấy sờ sợ; cả bọn bị hù dọa nên chạy đuổi theo nhau về nhà trước
khi mặt trời tắt bóng. Dì tôi nói dì Tưởng giờ mắt nhìn không rõ, đang sống nương cậy vào đứa
con ở đâu đó trên Tây Nguyên. Vậy là một
người nữa tha hương vì mưu sinh cuộc sống. Biết đến bao giờ dì trở lại chốn này? Người
già bao giờ cũng muốn quay về nguồn cội, như lá rụng về cội vậy. Trên mảnh đất
ngày xưa là ngôi nhà của cậu Hòa, em trai dì đang sinh sống. Tôi nhận ra cổng
vào làng, ghi rõ tên ngôi làng Nại Cữu. Xe chạy qua ngôi nhà thờ họ Võ ở đầu
làng. Hai bên là những ô ruộng xanh rì, sóng lúa nhấp nhô. Một vài con bò đứng
ngáng đường trên con đường đất đỏ mấp mô. Dì tôi chỉ về phía trái, đó là mộ ông
bà tổ tiên bên ngoại của tôi, mà chiều nay dì cháu tôi sẽ đi viếng. Cậu tôi chạy xe máy
ra đón, dẫn đường cho xe vào đến tận ngõ. Tôi nhận ra hàng rào chè tàu chạy
quanh ngôi nhà, bên trên đầy những sợi tơ vàng mà thuở bé thơ, tôi rất thích
bày trò chơi đồ hàng. Ngôi nhà ngày nào nhìn ra mặt sông, nay đã đổi hướng; vẫn
còn đó một khu vườn nhỏ, có những cây mít, ổi sai trái, những bụi chuối đang
trổ buồng, có cả cây chè già, lá dày xanh thẫm…Điều trước tiên tôi hỏi cậu về
bến sông xưa; cậu tôi nói rằng ngày mai cậu sẽ dẫn tôi ra xem. Trong không gian
vắng lặng của miền thôn quê, tôi cảm nhận mọi thứ đều khác, thậm chí khác cả
vùng biển nơi tôi ở, như anh tôi nói: anh ngửi được mùi vị quê hương, đó là mùi
khói bếp, mùi khói của rơm rạ, mùi ngai ngái của của những đống rơm ủ bên
nhà… Sáng ngày thứ năm 22 tháng
6 Trên quốc lộ 1A, đoạn
đường chạy từ cầu Ga ra đến trước chùa Sắc Tứ, xe cộ đông đúc, tiếng còi xe réo
liên hồi không nghỉ. Tôi không nhận ra con đường đất đỏ dẫn vào chùa, có hai bên hai
hàng dứa dại như thuở trước. Tôi quên cả lối đi nên cứ chạy xe theo cậu. Không
phải đi theo con đường vào cổng chùa mà chúng tôi phải chạy men theo con đường
mòn bên cạnh để vào nghĩa trang. Những ngôi mộ buồn bã, hoang vắng nằm gần
nhau, núp dưới hàng cây keo tràm và dương liễu, tiếng gió vi vu nghe như điệu
nhạc buồn muôn thuở. Tôi thấy lại hình ảnh của những cây bông ngũ sắc, mà tôi
thường gọi là bông tiêu; hoa nó có nhiều màu và khi chín hạt nó giống như những
hạt tiêu nho nhỏ. Tiếng chuông chùa lại ngân nga trong không gian mênh mang đầy
tiếng gió hú…Tôi chợt nghĩ mệ ngoại mình ngày trước làm công quả cho nhà chùa, nay phần mộ của mệ được
nằm gần chốn Thiền môn, đó cũng là hồng duyên của mệ. Các ngôi mộ của các cậu
tôi, mợ tôi, các em tôi cũng được nằm tề tựu chung quanh mệ. Nếu không có sự
trông nom của cậu Hòa, người bà con còn lại ở quê nhà, không dễ gì tôi tìm ra
được những ngôi mộ của người thân. Một nỗi buồn xâm chiếm lòng tôi. Tôi nhớ đến
hình ảnh của mệ ngoại trong những năm tháng ở Hàm Tân, sau năm 1975, ngày qua
ngày mệ già lom khom trong ngôi nhà tranh bé nhỏ. Cái khốn khó sau chiến tranh
như thử thách sự kiên nhẫn của những con người sống giữa buổi giao thời. Với
sức trẻ như chúng tôi có thể chịu
đựng được sự kham khổ, còn đối với người già như thế thì thật là tội đến nao
lòng: vì mệ tôi, mẹ tôi còn có nỗi nhớ khôn nguôi về những đứa con đang còn học
tập, cải tạo ở phương trời đất Bắc. Khói hương và lời cầu nguyện của con cháu
về đây viếng thăm như một lời an ủi, cầu mong cho người khuất mặt được an nghỉ.Chúng tôi chạy xe ngược ra
để đi vào cổng chùa. Con đường tráng nhựa thay cho đường đất sỏi đỏ vòng vèo
ngày trước. Tôi cùng dì, cậu vào
chùa thăm thầy và xin cúng qua đường, một chút lễ vật dâng lên Đức Phật từ bi
sau bao nhiêu năm mới trở về. Đây là chốn thanh tịnh, không đông đúc, ồn ào nên
khi bước chân vào vãng cảnh chùa, tôi cảm thấy tâm hồn mình thật thanh thản.
Một góc của chánh điện, đập vào mắt tôi là một cái trống màu đỏ sẫm thật lớn và
đẹp do một gia đình nào đó cúng dường. Ngôi chùa nay đã được trùng tu, không
còn thấy vết tích của chiến tranh, kiến trúc mới như còn lưu lại vẻ đẹp khá hài
hòa giữa nhân tạo và thiên nhiên. Chùa mới có vẻ khác ngôi chùa ngày trước, nhưng
dù sao tên chùa vẫn không thay đổi. Tôi rất tiếc khi không còn nhìn thấy hồ sen
tự nhiên trước tượng đài Phật Quán Thế Âm mà thuở đi học, mỗi khi qua chùa, tôi
thường đứng ngắm những đóa sen phơn phớt hồng, đẹp thanh cao luôn muốn vươn cao
khỏi mặt hồ. Chiều thứ sáu ngày 22
tháng 6 Tôi đã mượn được chiếc xe
máy để chở dì tôi, rủ thêm cậu Hoa chạy lên xóm Cửa Hậu bây giờ thay đổi như
thế nào? Có lần, dì cho tôi xem một bức hình dì chụp khi trở lại Quảng Trị sau
trận Cầu Dài, dì đứng bên cạnh ngôi nhà đã đổ nát vì bom đạn. Tôi chạy theo con
đường cũ ra Sãi. Chợ Sãi buổi sáng vắng người, chỉ lèo tèo vài người mua
kẻ bán. Chạy qua cầu Rì Rì, qua con đập cao ngăn lũ lụt…Dì tôi kể hồi xưa nước
lụt thường cuốn trôi nhiều chiếc đò và người ở đây ra biển. Chúng tôi đi lên chợ
vào ăn bánh ướt ở một quán, người chủ là dân Quảng Nam . Bánh ở đây không ngon bằng
bánh ướt thịt heo luộc hồi sáng tôi ăn ở nhà cậu Hòa. Từ sáng sớm, khi tôi chưa
thức dậy, cậu đã đi bộ ra đầu làng, gọi là tập thể dục kết hợp đi chợ luôn thể.
Bánh ướt từng miếng trắng phau, ăn kèm thịt heo ba chỉ mới luộc còn nóng hổi,
gắp thêm ít rau giá, chấm với nước mắm ớt đặc trưng. Ăn đến đâu là thấy ngon,
ngọt ngào đến đó. Tôi tấm tắc khen ngon, khen thịt heo thơm, không như mùi vị
thịt heo trong Nam … Tôi chạy qua bùng binh, quẹo
trái về đường Phan Đình Phùng (tên cũ là đường Lê văn Duyệt, dẫn về xóm của
tôi). Tôi ngỡ ngàng và xúc động trước cảnh cũ quá nhiều thay đổi: cổng thành
nham nhỡ những vết tích đạn pháo, để lộ từng hàng gạch đỏ thâm đen; vẫn còn cái
cửa sắt dày, cũ kĩ, han gỉ nhưng không còn rào lưới thép chằng chịt như sau
ngày Tết năm 1967. Dì cháu tôi ngắm cảnh vật ở đây như muốn tìm lại được những
gì còn sót lại của ngày xa xưa. Ngay đến vẻ đẹp của những đám hoa lục bình tim
tím kia và những đóa hoa sen hồng cũng hoàn toàn mới lạ, chúng làm sao hiểu nỗi
niềm tâm sự của chúng tôi. Tôi nhìn ra phía trước cổng thành, chiếc cầu mới,
hình dáng cong cong khá uyển chuyển. Cái gì cũng mới, cũng đẹp. Con đường vào
xóm nhỏ, xóm cửa Hậu, dẫn vào khu chiêu hồi đâu rồi nhỉ? Nhà cửa họ xây chắn
ngang, không còn con đường dẫn vào xóm nhỏ. Tôi cố tình nán lại để quay nốt
hình ảnh này, chụp vài tấm hình về đường Trí Bưu, về xóm Heo, trong lúc dì tôi
giục về để có thể vào thành. Hôm nay cửa thành cổ đã đóng, không cho người ta
vào tham quan. Tôi không có dịp vào tham quan CỎ NON THÀNH CỔ để tận mắt thấy bao lớp cỏ non xanh kia như lời
một nhạc sĩ khóc thương bao chàng trai trẻ đã ngã xuống trên chiến trường khốc
liệt. Dì cháu tôi đành chia tay cậu để trở về làng, còn cậu tôi chạy ngược lên
cầu Ga. Lần này, dì bảo tôi chạy xuống đường An Tiêm thay vì đi đường cũ về
Sãi. Đây đúng là con đường xưa chúng tôi đã đi về làng, chỉ khác là con đập
chắn ngang dòng sông, có một con mương rộng, dài dẫn nước về các làng. Tôi hỏi
dì tên con sông uốn quanh làng Nại Cữu là gì ? -Vĩnh Định. Trong chiến tranh,
khi dân chúng già trẻ dắt nhau men theo con sông này chạy ra miền ngoài, bị bom
thả chết nhiều lắm, nằm la liệt dọc cả đường. Tôi rùng mình, như có một hơi
lạnh toát lên dọc xương sống của mình. Trời chiều, ráng vàng đổ dài trên dòng
sông, hoàng hôn dần buông. Những bụi tre vươn ra bờ sông như cố níu kéo, con
đường đất đỏ về làng có đôi chỗ gồ ghề khó chạy…Một buổi tối thứ hai ở
làng ngoại, sáng ngày mai tôi sẽ lên cầu ga.Sáng thứ bảy ngày 23 tháng
6Tôi lên nhà cháu bên chồng
ở cầu Ga gặp chị Thanh Thu. Gần chín giờ, chị Quảng Trung và Đoàn Hoa cũng vừa
xuống xe. Chúng tôi đi lên viếng mộ ba chồng ở trên La Vang. Trời thương sao mấy hôm
nay không đổ nắng gay gắt, không làm cho chúng tôi, những người ở Nam ra đây rất
sợ cái nắng và gió Lào. Những ngôi mộ nằm trên đồi cao, nhìn xuống hồ nước được
bao quanh một rừng cây xanh, phong cảnh đẹp như một ưu đãi của thiên nhiên dành
cho vùng đất khô cằn này. Con kênh dẫn nước từ hồ Tích Tường về trong vắt, nghe
nói đây là nguồn nước sạch sinh hoạt cho cả thị xã. Hôm nay là mồng năm, Tết
Đoan Ngọ, tôi được mời ăn trưa tại nhà cháu, mặc dù tôi cũng rất nóng lòng gặp
bạn bè; lúc này các bạn tôi sau chuyến đi chơi Bà Nà, Đà Nẵng, đã ra đến Quảng
Trị. Tôi đến khách sạn hơi trễ. Chúng tôi rủ anh Lê Chí Hùng, một cựu học sinh
Nguyễn Hoàng từ Boston về, cùng đi qua chùa Sư Nữ(nay là Long An. Trước kia là
các nhà sư nữ nay toàn là các thầy và
chú tiểu). Xe chở chúng tôi lên cầu Ga, đi về con đường mới thay vì phải đi đò
như trước đây. Còn tìm đâu hình ảnh các sư cô, hàng tháng, vào ngày rằm, mồng
một qua chợ Tỉnh bán đồ chay? Các bạn kể
trong chiến tranh, ngôi chùa Sư nữ đã bị đổ nát, tan hoang, một ngôi chùa
mới được xây lại trên đất cũ và tên chùa cũng thay đổi từ đó. Bến đò bên bờ sông
này, nơi ngày nào tụi học trò thường đi qua, giờ tìm đâu thấy? Tôi nhớ đến mỗi
lần qua chùa Sư Nữ, ở bến sông cạn trước chùa Tỉnh Hội, chúng tôi thường xắn
quần lội xuống nước một quãng rồi mới leo lên.
Ông lái đò nhẹ nhàng chống sào đẩy chiếc đò ra xa ... Vô số rong xanh trôi
dạt cả về một góc ở bến sông, đó là hình ảnh thật lâu lắm tôi mới thấy lại trên
dòng sông Thạch Hãn.Vẫn còn thời gian để đi
tham quan thánh đường La Vang. Đúng là con đường hồi sáng chị em tôi lên mộ.
Bên phải là khu sinh thái Tích Tường mà tối này chúng tôi sẽ dự tiền hội ngộ
Nguyễn Hoàng. Khi xe rẽ vào con đường, một nhà thờ cổ cao lớn, uy nghi, nổi bật
từ xa, như hình ảnh tôi từng thấy trên các trang mạng. Tôi từng nghe có rất
nhiều con chiên ngoan đạo từ các miền về hành hương ở thánh đường La Vang xứ
mình. Tối thứ năm ngày 23 tháng
6 Thật đông đúc người về dự
trong buổi tối “tiền hội ngộ Nguyễn Hoàng ” tại Tích Tường! Thu Sương đã liên
hệ với nhóm Sài Gòn nên đã có vé vào cổng. Tìm được hai, ba bàn ngồi gần nhau cho
cả nhóm chúng tôi. Phải nói là một điều tôi rất mừng và cảm động là gặp được
anh bạn hàng xóm Cửa Hậu: Huỳnh Văn Rô. Khi Liên nói tên, tôi nhìn qua bàn gần
đó, với gương mặt ấy, thân quen lắm! Tôi nhận ra ngay. Chúng tôi tay bắt mặt
mừng, han hỏi vài điều. Tôi nói rằng anh Phúc có về và giới thiệu để hai anh
gặp gỡ. Hồi nhỏ, ở xóm Hậu, mấy nhà trong xóm sống gần gũi, rất thân với nhau. Buổi tối tiền hội ngộ thật
có ý nghĩa, vì để đến sáng ngày mai hội trường, ắt không đủ lấy thời gian hàn
huyên tâm sự.Chúng tôi về sớm hơn so
với mọi người. Ra đến cổng, thật bật ngờ, khi thấy hai người đi xe máy đến trễ:
hóa ra là anh Nguyễn Văn Trị, trông anh bao giờ cũng bận rộn.Về đến gần cầu Ga, nhóm
chúng tôi đi tìm thú vui ăn tối vỉa hè. Hồi trưa ăn gà, giờ cũng ăn cháo gà, kệ
ăn cho no bụng rồi về ngủ. Mùi cháo gà thơm phưng phức, vị ớt cay cay ngon
lành; ngồi ăn bên vệ đường, ngắm người,
xe cộ qua lại, có gió mát điện đường thay cho trăng thanh, tôi thấy thích thú hơn là giờ này về khách sạn
nằm ngủ. Sáng chủ nhật, ngày 24
tháng 6 Chúng tôi dậy từ sớm,
chuẩn bị để đến trường trung học Quảng Trị. Nhóm Đà Nẵng ở cùng khách sạn, cũng
ra quán gần đây ăn sáng. Tôi nhận ra chị Bích Hường, con bác Kinh ở cùng xóm,
gần nhà cậu tôi; có anh Bảo Lâm, cái tên nghe quen trên mạng; qua chuyện trò,
tôi biết anh ấy là bạn của anh tôi. Xe chạy trên con đường Trần Hưng Đạo, chúng
tôi nhao lên vì sắp về lại ngôi trường yêu dấu. Phượng Tiên muốn xem lại vị trí
nhà mình, tiệm sách Tùng Sơn, nay đã thành của người khác. Anh Đào càng nóng
lòng hơn, xin tài xế cho xe chạy chậm theo bờ hồ, vẫn tên con đường Lê Thái Tổ, bạn ấy muốn tìm cho ra khu vực nhà mình ở từ
thuở ấu thơ. Người về ngày càng đông
hơn, ai cũng muốn đứng trò chuyện, tìm gặp bạn ở ngay cổng trường. Mỗi bạn
nhận, đeo cái phù hiệu màu xanh mang tên trường như mang một niềm tự hào mình
là cựu học sinh Nguyễn Hoàng. Những học sinh đã được học dưới mái trường này
nay tóc đã bạc, đã thành ông, thành bà nhưng giờ gặp lại nhau tay bắt mặt mừng,
chuyện trò rôm rả thấy mình dường như trẻ lại. Bất ngờ tôi gặp Thu Hồng, người
bạn hàng xóm, bạn học hồi ở trường nữ tiểu học. Cũng với dáng người ốm ốm cao
cao, khuôn mặt ấy không lẫn vào đâu được. Hai đứa mừng rỡ ôm choàng lấy nhau,
chuyện trò và nhắc đến dì tôi; Hồng nhắn dì tôi đến nhà cùng ra Đông Hà
thăm người dì của Hồng. Trong sân trường, dưới những tán cây xanh, chúng tôi
như tìm lại ngày xưa của chính mình; thật đông người tề tựu ngồi với nhau
chuyện trò chờ đến buổi lễ. Với chúng tôi, như là bầy chim về tổ xem chừng trẻ
nhất, cũng chừng năm mươi người ở các nơi hẹn ngày gặp mặt. Các bạn từ Sài Gòn
về đây như Lăng, Sương, Nguyên, Thảo, Anh Đào, hai cặp vợ chồng Sáng, Trường
Chinh, có Liên, từ Bình Phước, Ty, Lài về từ Bà Rịa, ở Bình Thuận chỉ có tôi;
Phan Rang, Ninh Thuận có Phục, từ Đà Nẵng còn có Huệ, Kim Anh, xứ Huế mộng mơ
có hai cô nàng Việt Anh, Phượng Tiên nhập đoàn. Ngay tại quê nhà Quảng Trị,
Đông Hà các bạn rất đông, tôi thấy những cái tên và những khuôn mặt các bạn
hình như quen lắm. Tôi cố lục lọi trong trí nhớ xem vị trí ngồi của mình và các
bạn. Tôi thích nhất là bạn Cận, Bạch Hoa, gương mặt bao giờ cũng tươi cười, luôn
đem đến cho bạn bè nhiều niềm vui rạng rỡ. Mai Thị Đầm, Lê, Mai Anh, bạn lớp
trưởng hồi tiểu học là Dương Thị Hóa…thật nhiều bạn bè có mặt trong ngày hội
ngộ. Tôi nhớ mường tượng bạn Lê Thị Hiền với nước da trắng trẻo, dáng người nhỏ
bé, ngồi cùng bàn đầu trong lớp với tôi, Anh Đào. Các bạn nam thì tôi không
biết rõ do hồi đó nam nữ học riêng; bạn
của các bạn tôi như Mai Thanh Cấp, Phước, Tuất, Bình, Ái,…ai cũng có công việc
làm ổn định, người làm nhà nước, kẻ buôn bán, có người làm cả quản lý chợ… Tiếc
rằng chuyến đi này về quê không có mặt Lý Thế Văn, Lê Thị Quảng, Ngọc Ánh,
Phương Trinh, Hải, Hường, Hảo, Lai, Phú…giá như có đầy đủ bạn bè thì vui biết
bao! Những bài ký sự của buổi lễ đã được anh chị ghi nhận, bày tỏ cảm xúc dạt
dào bằng các bài viết, quay phim, chụp hình lưu niệm. Riêng tôi, tôi đã chạy
quanh. Thật sự tôi không thể ngồi yên một chỗ vì thời gian cứ vô tình trôi đi,
tôi chụp hình chung với các bạn rồi lại tiếp tục chạy như con thoi. Dại gì mà
ngồi một chỗ, tôi đi tìm người quen, đi để mà chứng kiến cuộc gặp gỡ của biết
bao bè bạn các khối lớp. Tôi vô tình chụp được lúc hai chị quá xúc động gục vào
vai nhau khóc tấm tức. Tôi nhận ra anh Văn Thiên Tùng, anh Nguyễn Khắc Phước,
anh Bùi Văn Thu, Hoàng Văn Chẩm, các nhân
vật thường xuất hiện trong các trang blog nay bước ra ngoài đời bằng xương bằng
thịt hẳn hoi, giờ thì chúng tôi đã biết nhau rồi đó. Tôi còn gặp và chụp tấm
hình chị Võ Thị Quỳnh trong tà áo dài trắng học sinh, chị đội chiếc nón bài thơ
trông thật duyên dáng. Tôi lại đi tìm và gặp chị Mai, bà con của chồng tôi, chị
bị tàn tật và được ban liên lạc mời đến nhận quà. Tôi nhắc lại cho chị nhớ câu
chuyện chồng tôi kể chuyến về thăm quê cách đây đã 16 năm, lúc đó chồng tôi
nhận ra chị nhưng giả vờ là người khách hỏi mua hàng. Hàng quán của chị chỉ là
một gian nhỏ bên đường làng quê, tạm đủ nuôi chị và đứa cháu. Các chị chồng tôi cũng đi tìm gặp và
giúp đỡ chị. Thật thương tâm cho hoàn cảnh của chị, chị không dám ngẩng mặt
nhìn thẳng vào mắt người đối diện, vì một mắt của chị bị khiếm khuyết từ lâu.
Các phần lễ diễn ra khá dài để cho những học sinh nghèo và người khuyết tật như
thế phải chờ lâu. Tôi và anh Phúc, chị Túy Huệ gặp lại cô gái hàng xóm dễ thương là
chị Hà Thị Bích Hường. Tôi đi một vòng quanh sân trường, vào phòng lưu niệm để
xem hình ảnh, các di vật kỉ niệm, bản đồ đường phố Quảng Trị, tôi vẽ và viết bổ
sung thêm một số địa điểm, nhà các bạn mà tôi biết. Tôi còn vội vàng viết những
dòng lưu niệm. Không hiểu sao lúc đó lòng tôi dạt dào xúc cảm, tôi viết ra
không cần suy nghĩ lâu, chữ viết đúng là tốc ký nên chẳng đẹp, chẳng ý tứ gì cả. Tôi muốn góp thêm một bông
hoa thắm vào trang kỉ niệm Nguyễn Hoàng. Tập kỷ yếu anh võ Đình Đoan, nhờ anh
Hảo thay mặt nhóm 6471 ký tặng tôi, suýt nữa tôi bỏ quên ở phòng lưu niệm. Tôi
ra ngoài cửa phòng ngồi với Anh Đào. Chuyến này Đào đi tuy có mệt nhưng vui
lắm, Đào muốn ngồi nghỉ một tí cho khỏe. Ai đi vào cửa phòng lưu niệm cũng nhìn
hai đứa tôi, tôi thích quá, nói với Anh Đào chắc họ tưởng mình là ban tổ chức,
Đào cười hiền lành.Buổi cơm trưa được mời,
nhưng vẫn có những phần thiếu sót do thiếu chỗ ngồi. Tôi chịu khó đem hai cái
ghế vào nhưng các bạn tôi đi vào đâu hết rồi, tôi đành đứng ngoài. Thấy thầy cô
đi vào, đang còn lúng túng chưa có chỗ, tôi nhường ghế cho thầy Thăng và thầy
Bảo ngồi đỡ mỏi chân, trong lúc chờ ban tổ chức sắp xếp. Bạn Lăng, Chinh ra gọi
tôi vào. Ôi chao, trong hội trường người đông nghẹt, tôi ăn đứng cũng thấy vui
vui. Buổi trưa xong, tôi ra chào anh Phúc để về cùng bạn bè. Hai anh chị sáng
mai sẽ lên xe vào Bình Thuận trước, chuẩn bị cho chị Túy Huệ qua Mỹ. Chị Quảng
Trung cũng đi tìm chị Thanh Thu để hôm sau vào Huế, hai chị em gọi điện cho
nhau nhưng do người đông, ồn quá không nghe được. Hội ngộ Nguyễn Hoàng Quảng
Trị lần thứ 3 thật vui và có ý nghĩa! Tôi cũng như mọi người sẽ giữ mãi những
kỷ niệm đẹp đẽ này. Không biết lần sau tại quê nhà còn có được những ai về đây
gặp gỡ? Chiều chủ nhật 24 tháng 6 Cuộc vui vẫn chưa tàn. Mặc
dù biết sáng hôm sau sẽ có nhiều người vội vàng về với gia đình, về với công
việc nhưng chúng tôi lại rủ nhau đi đến quán café Tiếng Dương Cầm tại một góc
phố Đông Hà để hát cho nhau nghe. Buổi chiều được ăn no, tối đến lại vui ca
hát. Các bạn ở Đông Hà, Quảng Trị thật chịu chơi, thật sành điệu.Một buổi tối tại khách sạn
Violet. Phòng ba đứa tôi ngửi toàn mùi ẩm mốc và trời về khuya nghe rõ tiếng
gió rít qua khe cửa từng đợt… Sáng thứ hai ngày 25 tháng
6 Thu Sương rủ tôi, anh Đào
cùng về làng quê Vĩnh Lại thăm mộ ông bà; trong lúc các bạn khác đi về làng
Bích La của Xuân Nguyên, về làng bạn Ty. Tôi ra bờ sông Hiếu ở trước mặt khách
sạn ngắm bình minh, mặt trời đang lên, ánh sáng lan tỏa trên mặt sông thật đẹp.
Chúng tôi đi bộ một quãng qua khỏi cầu để cảm nhận được không khí trong lành
buổi ban mai. Xe đón ba chúng tôi về làng. Làng nội Thu Sương yên bình như bao
làng quê khác, có cổng làng, có những ruộng lúa xanh rì gợn sóng, lũy tre xanh trên
bờ đê, ngôi chùa khang trang, những ngôi mộ cổ xưa... Cửa Việt gần làngVĩnh Lại,
nơi ngày xưa bạn bè tôi rủ nhau đi xe đạp về đây vớt rong biển để chấm điểm môn
vạn vật. Chúng tôi không đi
biển vào sáng nay mà để dành vào buổi chiều đi có mặt đông đủ bạn bè. Ba đứa
đến bờ sông Thạch Hãn, chụp hình trên bến
thả hoa đăng. Tôi nghe bài đọc của phát thanh viên về chiến công lẫy lừng trên
đất Quảng Trị của những người con đất Bắc khiến tôi một lần nữa thấy rưng rức
trong lòng. Tôi dẹp bỏ ý nghĩ vào trong tham quan thành cổ cỏ non xanh, xem
tháp chuông chiêu hồn...Như đã hẹn, chúng tôi gặp lại
các bạn ở chùa Tỉnh Hội. Ngôi chùa nhỏ bé ngày nào tôi và Sương cứ mỗi chiều
chủ nhật về đây sinh hoạt học sinh phật tử. Biết bao kỉ niệm ùa về trong tôi… Trưa thứ hai, 25 tháng 6 Chúng tôi được vợ chồng
bạn Ái, chủ nhà hàng Tích Tường mời đến ăn bữa cơm trưa. Các bạn lên sân khấu
còn lại của buổi hôm tối qua để chụp hình lưu niệm. Đây là khu sinh thái, nơi
người ta tìm về gần gũi với thiên nhiên, nơi có nhiều cây xanh bao quanh mặt hồ
rộng, lặng sóng; không khí trong lành,
không nghe tiếng ồn ào xe cộ. Gió thổi lồng lộng, mát rượi, xua tan cái nóng
hầm hập của từng cơn gió nam bắt đầu thổi về. Bữa cơm trưa đầy đủ các món ăn
Quảng Trị như cá rô chiên, mít luộc, dưa môn kho, canh cá măng chua…mấy món
nước chấm cũng được trưng bày đẹp mắt. Thật cảm ơn sự đón tiếp nồng hậu của vợ
chồng bạn Ái. Tôi là bạn của bạn Ái nên ngồi nghe bạn bè họ chuyện trò, chỉ
thỉnh thoảng góp vài câu cho có lệ. Chiều thứ hai ngày 25
tháng 6 Chúng tôi ra biển Cửa
Việt, đi theo con đường từ Đông Hà thấy nhanh hơn là đi về từ Quảng Trị. Bãi
biển nào cũng có nét chung giống nhau, tuy nhiên bãi ở đây có phần trải dài hơn
so với bờ biển Cam Bình, La Gi, nơi tôi ở. Bạn bè nữ chúng tôi tha hồ nô đùa
như thuở bé dù tuổi đời đã là U50. Chúng tôi rủ nhau xuống bãi biển chụp hình,
các bạn đùa với sóng nước, luôn tạo dáng trước ống kính. Đào đã làm cho mọi
người thật bất ngờ. Anh Đào cười đùa vui vẻ làm cho chúng tôi vui lây, vì ai
cũng lo lắng cho sức khỏe của Đào trong chuyến đi xa dài ngày. Mấy món ăn hải
sản của được bày ra, chúng tôi ăn uống, chuyện trò, ca hát vô tư…Một buổi tối lại trôi qua
trong căn phòng đầy tiếng gió rít ở đầu hồi… Sáng thứ ba, ngày 26 tháng
6 Chúng tôi giã từ Đông Hà
để vào Huế. Món bún bò Huế được ăn ở đây thật đậm đà, ai cũng cảm thấy đói bụng
vì từ sáng đến giờ chưa có gì vào bụng cả. O bán đậu hũ trên vỉa hè cũng được
đạo diễn tạo tư thế ngồi để chụp hình, bạn Liên nhanh chân xin một tấm hình
được chụp bên cạnh gánh đậu. Ai cũng nôn nao khi đến tiệm bánh kẹo Thiên Hương
mua thật nhiều mè xửng, kẹo cau, trà, hạt sen về làm quà cho người thân.Rời Huế, xe chạy về Nam,
các bạn sẽ thả tôi ngay cầu Truồi, để tôi về thăm quê nội, xe tiếp tục đưa bạn
bè vào Đà Nẵng, thêm nữa một đêm vui chơi, sáng hôm sau lên máy bay trở về Sài
Gòn, giã từ miền kỷ niệm. Còn tôi, là đứa cháu lạc loài về thăm quê nội…