Thứ Sáu, 21 tháng 12, 2012

Sùng Nhơn, miền quê xa


                                                                  Sông La Ngà
Tôi đã có một vài chuyến đi về thăm lại Sùng Nhơn, Đức Linh.
Trong mấy lần về đây, hầu như có gần đủ các anh chị của anh, còn tôi là người thay thế cho anh trong gia đình bên nội. Không có anh nhưng những kỉ niệm về anh, về cuộc sống đầy gian khổ trong mấy năm trời ở vùng đất nghèo khó này cứ theo nhau hiện về. Mọi người thay nhau kể chuyện ngày nào còn theo đội sản xuất ra đồng lao động. Công sức làm ruộng, cấy lúa, nhặt cỏ … được tính công và cuối vụ được trả bằng vài thúng lúa. Chẳng qua một thời để nhớ, để tưởng niệm quá khứ và tự hào vì mình còn đứng vững trong thời kì bao cấp ấy.    
Tôi không hiểu sao vào lứa tuổi thanh niên, tôi có đủ sức khỏe và nghị lực đến như thế! Năm 1978, tôi đã cùng đoàn người lên khai phá khu rừng Bắc Ruộng, để cho hôm nay, đây trở thành một khu đông dân cư. Mùa hè năm sau, từ trường sư phạm Phú Long, tôi cùng anh lên xe về Bắc Ruộng. Hồi này, xe cộ hiếm hoi, việc đi lại rất khó khăn, chờ đợi mua được vé phải mất nhiều thời gian. Chiếc xe chạy bằng than ì à ì ạch trên chặng đường đất đỏ lầy lội, ngồi cạnh thùng than mà thấy người nóng hầm hập, mồ hôi đổ giọt, có nhiều lúc chúng tôi phải xuống xe, tài xế nóng lòng ngồi trên cabin rồ máy, còn đàn ông, thanh niên phụ nhau đẩy chiếc xe qua chỗ bị sụp lầy. Đây là núi Tà Pao, chỉ còn một quãng nữa là đến Bắc Ruộng. Bến xe là bãi đất trống, vắng ngắt như tờ, quanh đâu đó chỉ một vài ngôi nhà tôn mái lá kè lụp sụp. Chúng tôi mang xắc lên vai, chẳng có gì ngoài vài món quà đơn sơ đem về thăm gia đình; chuẩn bị tinh thần lội bộ, nghe chừng gần 30 cây số tính từ đây về đến Sùng Nhơn. Vừa đi tôi vừa quan sát hai bên đường. Xung quanh vẫn còn lắm trảng rừng, nhà cửa thưa thớt, đường lộ thật vắng vẻ, ít xe cộ và người qua lại. Trên đường đi, thỉnh thoảng, chúng tôi gặp một số dân địa phương, tiếng nói như người dân tộc rất khó nghe; tôi hỏi và được biết đó là người dân gốc ở đảo Phú Quý, Phan Thiết, vào đây sinh sống. Trời chiều đã xế bóng, mồ hôi nhễ nhại, bước chân chúng tôi vẫn bền bỉ trên con đường dài băng qua xã Nghị Đức, Mé-Pu…Vừa đi vừa trò chuyện nên cũng quên đi sự mệt mỏi, lâu lắm  mới dừng lại, ngồi xuống ven đường xoa bóp cho đôi bàn chân bớt tê cứng. Đi mãi cho đến khi trời vừa sập tối chúng tôi mới về đến nhà.
Tôi đã từng nghe anh kể vào thời gian đầu mới lên xứ này, anh vào rừng chặt tre về bán ở chợ Vỏ Su. Khi bơi qua sông La Ngà, anh ôm mấy cây tre, dựa vào sức nước để vượt qua bên kia bờ. Số tiền bán tre, anh đem về đong gạo nuôi gia đình. Anh còn đưa cho tôi xem mấy vết sẹo còn in rõ ở trên trán và cánh tay, vì một hôm bị tai nạn,  do không có kinh nghiệm khi đi rừng. Mùa hè năm sau, anh và người chị cả làm đơn đi học sư phạm, gọi là để thoát ly, để thay đổi cuộc đời, thoát khỏi cảnh khổ. Thời gian đầu và mãi về sau này, anh hay bị chứng đau nửa đầu, cũng có thể cơn bệnh ngặt nghèo đã ngấm vào người? Cuộc đời anh thật ngắn ngủi, chưa đủ để làm hết những dự định đang còn dang dở…Anh để lại cho tôi tiếp nối trên con đường anh đã chọn.
Sùng Nhơn là miền quê mới của người dân Quảng Trị. Đây là một vùng quê nghèo, nằm cuối cùng của tỉnh Bình Thuận và gần giáp với tỉnh Lâm Đồng. Phía tây là những dãy núi cao xa tít chân trời. Dân ở đây có thể đi tắt theo con đường từ Sùng Nhơn ra đến Định Quán, Phương Lâm, rồi từ đó lên Bảo Lộc, Lâm Đồng. Người ta bảo “Đất lành chim đậu”, điều đó cũng đúng, vì những năm 1977, 1978 là năm thiếu đói, con người phải biết dựa vào đất để mà sống; cảm ơn trời đất đã cho con người có cái để ăn qua những năm tháng cơ cực sau chiến tranh. Dân tứ xứ về đây định cư theo chính sách di dân, khẩn hoang – kinh tế mới. Giờ đây, hai bên đường, thay thế những trảng rừng là xóm làng, nhà cửa khá khang trang, xa kia là những đồng lúa xanh rì xen kẻ nhiều nương bắp trái vụ. Vì đây là một vùng đất trũng nằm gần núi nên đầu mùa hè thường xảy ra những trận mưa dông kèm theo một vài cơn sét đánh chết người. Nhà nước đã cho xây những cột thu lôi nằm chơ vơ giữa đồng ruộng. Ngày trước, học sinh đi học trường cấp 3 ở Vỏ Su, hôm nay ngay tại xã Mé-Pu đã có một trường Trung học phổ thông, làm cho các em đỡ vất vả, khỏi phải đi học xa nhà. Đường sá đã được làm mới, tuy nhiên vẫn còn những đoạn đường còn quá hẹp, gồ ghề lắm ổ voi, ổ gà.
Quanh năm, có một số người dân sống bằng nghề câu cá trên đồng hoặc cất vó ven sông. Một dịp về ngang Vỏ Su, chúng tôi ghé vào một quán ven đường để thưởng thức món cháo cá lóc. Mùa mưa, nước lủ tràn về trên sông La Ngà, nước tràn lênh láng vào các ruộng đồng. Dòng sông ở đây hẹp và sâu, nhìn thấy dòng nước đỏ lừ lừ chảy ùng ục cứ tưởng tượng bao nhiêu nước trên rừng theo nhau tuôn về xuôi. Có khi tôi nghe người ta kháo nhau đâu đó trên sông La Ngà có cá sấu, không biết thực hư như thế nào. Từ Sùng Nhơn đi qua Vỏ Su có khi người ta phải đi đò rất là nguy hiểm, nhất là vào mùa nước dữ, dòng nước xoáy hung tợn có thể làm cho chiếc đò lật úp, chìm nghỉm.
Đầu mùa hè năm 2009, tôi đi công tác ở Nam Chính, Vỏ Su, tôi có ý định buổi tối hôm đó về thăm anh họ tôi ở Sùng Nhơn. Chúng tôi không đi về đường Bắc Ruộng mà đi theo đường Lạc Tánh - Huy Khiêm- Vỏ Su. Ghé Lạc Tánh, ngồi nghỉ ở một quán nước bên đường, thật ngạc nhiên khi nhìn thấy những chú chuột đồng nghe nói là béo ngậy đang được chưng bày như món đặc sản, món ruột của dân nhậu. Tôi đợi đứa cháu chồng(nhà ngay thị trấn Lạc Tánh này), gặp nhau tại quán, cùng uống nước chuyện trò. Mới đầu mùa mưa mà dân ở đây trồng bắp đã thu hoạch, từng thúng bắp chín bày bán dọc đường. Tôi hỏi đứa cháu về món chuột đồng kia. Cháu tôi cười cười trả lời: “Ai biết đó là chuột đồng hay chuột nhà, làm sao mà phân biệt được?”.
 Tôi không biết Huy Khiêm ở đoạn nào trên chặng đường mà tôi đã đi qua? Tôi đã quên mất, không nhớ rõ nơi mà ngày trước vào năm 1976, 1977 sau giải phóng , ba tôi đã gần hai năm sống tại trại cải tạo Huy Khiêm này. Một vài lần tôi tìm lên thăm nuôi ba tôi. Được phép của cán bộ trại giam, tôi vào thăm ba. Ông vẫn nụ cười hiền lành, hỏi thăm về gia đình, nhận quà thăm của nhà mà rưng rưng nước mắt. Tôi hỏi ba làm những công việc gì, có nặng nhọc lắm không? Ba tôi kể rằng ông được giao cho việc bốc hạt đậu phụng, thứ nông sản do chính tay các anh em lao động, làm ra. Giờ đây ông còn được giao việc chăn giữ mấy con bò của trại. Ông hay dắt chúng ra gần hàng rào cho ăn cỏ. Có khi vài người dân cảm thương khi nhìn thấy liền dúi vào tay ông ít tiền. Ông không biết dùng để làm gì, để dành lại khi tôi lên thăm ông gởi về cho mẹ tôi. Khi vào rừng, có vài buồng chuối sắp chín, ông tìm cách bẻ xuống, đem dú vào bụi cây đến khi chín hẳn đem về cho anh em ăn dần. Ngày mồng bốn Tết năm 1976, tôi lên thăm ba tôi. Có sự trùng hợp ngẩu nhiên hay linh tính báo điều không lành, mà ba tôi đưa cho tôi gói đồ gởi về nhà, trong đó có một chiếc khăn trắng, tôi vô tư lấy khăn cột lên tóc mình. Ai ngờ đó cũng là ngày ông nội tôi ở Huế sắp từ giã cõi đời khi bên cạnh không có người con trai trưởng, mà người con ấy chính là ba tôi, đang còn ở trong trại. Tôi cứ suy nghĩ mãi về điều này, con người chắc chắn có một mối linh cảm, ràng buột với nhau, nhất là những người thân thích ruột thịt. Ba tôi khi biết tin ông nội mất chắc đau khổ, dằn vặt vô cùng! Rồi cuối cùng ba tôi cũng rời trại, trở về với gia đình, tuy nhiên sức khỏe của ông về sau không được tốt lắm.Trại Huy Khiêm đã gắn với bao kỉ niệm vui buồn của những người như ba tôi đã từng một thời làm việc cho chế độ cũ, còn sau này qua bao nhiêu năm tháng cố gắng phấn đấu cải tạo để trở về đời thường, sống hòa nhập với xã hội; nhưng giờ thì đa số những người ấy đã già nua hay có thể không còn sống trên cõi đời này nữa.
Ra đồng, sợ sét đánh
 Như ý định, tôi ghé về Sùng Nhơn. Ngang ngã ba, tôi đã nhác thấy anh tôi đứng chờ. Tôi chia tay người bạn ở đó, hẹn sáng hôm sau gặp nhau tại chợ để về Vỏ Su. Người bạn tôi cũng tiện dịp về thăm nhà em trai ở Đa Kai, cách chừng vài cây số.  Đa Kai là vùng đất mới khai hoang sau này, là nơi đang khai thác nguồn tài nguyên nước khoáng. Tôi ở lại một đêm với gia đình người anh họ, con cậu tôi. Khoảng ba giờ sáng, khi trời còn tối đen như mực, anh tôi đã đi ra bờ sông. Ngày nào cũng như thế, anh ra sông gỡ số cá mắc lưới mà chiều hôm trước anh giăng câu. Hôm nay, anh bắt và bán cá được mười mấy nghìn, còn mớ ốc bươu anh lượm ở ruộng được lưng giỏ, đem về băm nhỏ làm thức ăn nuôi bầy vịt. Anh còn than vãn năm nay nạn chuột đồng phá làm mất mùa lúa lấy đâu ra tiền lo cho con ăn học. Chăn nuôi, trồng trọt, làm ruộng, bắt cá đã biến anh trở thành một nông dân thực sự.Thấy người anh gầy gò, đen đủi vì dầm mưa dải nắng, tôi rất mủi lòng. Anh là con trai cả của cậu tôi; gia đình cậu tôi ngày trước ở Quảng Trị thuộc vào hạng công chức, có một cơ ngơi tương đối khá. Chiến tranh đã cướp mất tất cả. Giờ đây hầu hết các con của cậu tôi đều lam lũ, sống bằng các nghề lao động là chính.
Cột thu lôi 
Người dân về đây lập nghiệp về sau có sự phân hóa rõ giàu nghèo. Người làm ruộng, người làm thợ ở lò gạch, người làm nghề bốc hạt sen, hạt điều thuê, kẻ buôn bán, người giàu cho vay lấy lãi… dần dà tạo nên những tầng lớp trong cái xã hội thu nhỏ ở vùng quê ấy. Có một số gia đình có ý chí muốn vượt lên cái nghèo khó bằng cách bươn trãi cho con học đại học, cao đẳng, làm công nhân các nhà máy, có số em trở thành thầy giáo ngay tại địa phương. Tôi hỏi chị họ tôi bốc hạt sen một ngày được bao nhiêu tiền công? Chị tôi bảo chỉ hai, ba chục nghìn là mừng rồi, đủ để sống tiện tặn qua ngày. Vậy thì khi bệnh lấy đâu ra tiền chữa bệnh? Ơn trời, mong cho khỏe mạnh. Chị tôi cười.
Đất đai xứ này màu mỡ, người ta trồng một năm mấy vụ lúa. Hầu như nhà nào cũng có vài trụ tiêu trồng trong khu vườn. Dây tiêu xanh um leo lên trụ bằng thân cây gỗ, dần dà gỗ rừng khan hiếm họ thay thế bằng mấy trụ gạch. Khí hậu có vẻ khắc nghiệt hơn, ban ngày trời nóng như đổ lửa, về đêm lại rất lạnh, không có những cơn gió mát mẻ, dễ chịu  như mấy vùng ven biển. Người dân Quảng Trị mình không chịu an phận, một số lại đi tìm vùng đất hứa: đó là Xuân Sơn, Ngãi Giao, Bình Giã…của tỉnh Bà Rịa, Vũng Tàu; là Trị An, nơi phát triển nhà máy thủy điện của tỉnh Đồng Nai, ngày xưa còn lừng lẫy chiến khu D; đi đâu cũng thấy dân xứ mình lưu lạc đến ở và tìm mọi cách để sinh sống. Phải nói rằng gia đình cậu tôi rời chốn này về Xuân sơn làm ăn thì cuộc sống có phần tốt đẹp hơn là ở Sùng Nhơn. Còn lại chỉ hai người con của cậu; tôi thật ái ngại khi nhìn thấy cuộc sống của các anh chị: vì tôi có cảm giác như đây là tận cùng của sự khốn khổ!
Vườn tiêu
*Khi kết thúc bài viết này là vào đầu mùa hè tháng 6 năm 2010-vợ chồng người con trai cả của anh họ tôi, cả hai đều là giáo viên trường trung học cơ sở, hiện đang dạy ngay tại quê nhà Sùng Nhơn- chiều này, sau một chuyến đi thăm bà nội ở Xuân Sơn, ghé về thăm tôi. Anh tôi có cả thảy 7 người con( dân số hèn gì tăng vọt là phải!), trong đó còn có một con gái đang học đại học xã hội-nhân văn, khoa báo chí, hy vọng sau này cậu cháu xin cho về làm tại Phan Thiết; một con gái sau hai năm bền chí mới học xong bổ túc, có bằng trung cấp, đang xin làm việc ở khu công nghiệp Biên Hòa; một con gái khác cũng làm công nhân tại đó; một con gái đã có gia đình, ở gần nhà, ngoài ra còn có hai đứa con đang học trung học phổ thông. Anh tôi vẫn có niềm tự hào khi nói với tôi về truyền thống hiếu học của gia đình, khiến bà con hàng xóm cũng phải nể phục. Âu cũng là một phần kết có hậu phải không? Tôi tin chắc là như thế!   
      

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.