Quê nội tôi là xứ Truồi, Huế nhưng tôi sinh ra và lớn
lên tại Quảng Trị, được sự đùm bọc của quê ngoại.
Làng Truồi, quê nội
Tôi chỉ nhớ mang máng con đường về thăm quê nội trong
những ngày Tết năm nào. Con đường nhỏ dẫn vào làng gần đường xe lửa.Âm thanh
tiếng còi tàu ngày xưa mà tôi nghe như vẫn còn vang vọng mãi cho tới bây giờ.Làng
tôi thơ mộng nằm ven con sông nhỏ, nước trong xanh ngăn ngắt, ngôi nhà nho nhỏ
của nội nằm khuất trong khu vườn rợp bóng cây.Tôi không có bao nhiêu ngày ở quê
nội, nên trong trí nhớ của tôi về nơi đây hầu như rất mờ nhạt.
Sông Truồi
Nhà tôi nằm trên đường Lê Văn Duyệt, ngay trước cửa cổ
thành Đinh Công Tráng. Đi vào một quãng là nhà bà ngoại. Quãng đời thơ ấu của
tôi bắt đầu từ nơi đây. Vào những ngày mưa bão năm xưa, mẹ và các cậu, dì của
tôi kéo nhau ra đường lôi những thân cây bị đổ về làm củi đốt. Còn đám nhỏ chúng
tôi thì ở trong nhà chơi đồ hàng rất ư là vô tư, hầu như không biết thế nào là
cái khổ sở của người dân chạy lụt.Ở đây tình làng nghĩa xóm rất khắn khít, sống
chan hòa yêu thương nhau. Chúng tôi thường rủ nhau ra phía cuối xóm. Nhìn phía
xa tít tắp chân trời là những cánh đồng, những làng mạc. Tôi đoán chừng đâu đó
là Nại Cữu, quê của mẹ tôi. Lũ nhỏ chúng tôi còn tinh nghịch leo lên cả mấy mộ
đá đen sì, hù dọa ma rồi rượt đuổi nhau chạy ù về xóm. Vào dịpTết, chúng tôi
thường rủ nhau về làng quê Nại Cữu. Đi
bộ quãng đường thật dài nhưng vừa đi vừa đùa giỡn nên chúng tôi quên hết
bao mệt mỏi. Làng ngoại tôi nghèo lắm, đa số sống bằng nghề làm nông, còn những
ai khá giả đã tìm đường ra tỉnh hoặc đi sinh sống nơi khác. Ra đến bến sông ven
lũy tre làng, chúng tôi tha hồ nghịch nước. Đang đói bụng nên ăn bữa cơm trưa đạm bạc thấy rất ngon lành dù
chỉ là cơm trắng với muối ớt, dưa cà. Chơi đùa thỏa thích, buổi chiều lại kéo
nhau về nhà. Vừa đi vừa chạy sợ bị Cách mạng nằm vùng bắt lại.(Nghĩ lại thấy
tức cười quá!Ai thèm bắt lũ nhóc chúng tôi nhỉ!).
QUẢNG TRỊ ƠI
!NHỮNG NGÀY VUI
Sau năm 1968, biến cố Xuân Mậu thân, gia đình tôi lên
ở ngay chợ Quảng Trị. Dì và mẹ tôi thuê một ngôi nhà (sát tiệm chụp ảnh Li Do)
để buôn bán. Tôi tiếp tục học trường nữ tiểu học.Sau đó tôi thi đậu vào trường
Nguyễn Hoàng. Tôi có thêm những bạn bè mới.
Sau buổi học, chúng tôi thường rủ nhau đi tìm cây
lá…về sưu tầm, đem lên cho thầy, cô chấm điểm môn Vạn Vật.Muốn có cây dương xỉ,
tôi và vài ba đứa bạn tìm đến những bờ ao ven làng để kiếm. Muốn có rêu, tôi
chỉ việc đến nhà bạn, leo lên vách nhà gỡ xuống vài mảng . Muốn có rong biển,
chúng tôi phải đi xa hơn. Chúng tôi đạp xe về tận biển Cửa Việt. Về đến đó, tội
lội ngay xuống vũng nước vớt rong, bỏ vào vài bao ni lon . Khi đem về, chúng
tôi giữ khư khư coi như là báu vật…Tụi bạn còn rủ tôi đạp xe về quê chúng ở
làng Quy Thiện chơi. Đám con gái tuổi 12, 13 mà nghịch không kém gì đám bạn con
trai.Chúng tôi tha hồ leo cây hái ổi, nào trái ăn trái để dành mang về nhà.
Tham gia hoạt động xã hội- đây là hoạt động tôi rất
thích vì bản tính tôi vô cùng hiếu động. Tôi là đoàn viên trong Đoàn thể Học sinh Phật tử. Vào mỗi buổi
chiều chủ nhật, tôi đến chùa Tỉnh Hội để sinh hoạt vui chơi. Không những thế,
tôi còn cùng với các anh chị tham gia công tác cứu trợ đồng bào bị thiên tai lũ
lụt. Có một lần đi cứu trợ tại Mỹ Chánh. Từ sáng sớm ,chúng tôi tập trung tại
chùa, nhanh chóng leo lên xe để đi, bất chấp mọi nguy hiểm. Vài chiếc xe lớn
chở đoàn người chúng tôi vào vùng nước lũ vẫn còn chưa rút hết.Xe chạy băng qua
những con đường ngập nước, nước tràn cả lên đường cái. Đến nơi, chúng tôi tập
kết bên này sông. Một vài chiếc đò lần lượt chở từng đoàn người và lương thực,
thực phẩm qua sông để kịp thời cứu trợ cho dân trong làng. Giờ nghĩ lại thấy
cũng liều! Lỡ may đò chìm nghỉm thì làm gì còn có hôm nay. Có một điều rất vui
và cảm động là người dân nghèo quý chúng tôi lắm. Họ vui mừng không kể xiết.
Trưa hôm đó, chúng tôi ăn qua loa cho đỡ đói lòng. Vẻ mặt người nào cũng hớn hở,
vẫn cười đùa, ca hát vô tư mặc gì trời
mưa rét. Chia tay ra về, ai nấy cũng còn
lưu luyến. Khi đi xuống đình làng, tôi vẫn còn thong thả ôm Ông Thiện để cầu
được ban phước lành( Ở đây có hai ông thần đứng chầu hai bên, một bên là Ông
thiện, còn một bên là Ông Ác).Cũng vẫn là những chiếc đò mỏng manh lần lượt chở
chúng tôi trả về bên này bờ sông.
Đi cứu trợ lần này, giữa đường tôi vẫn không quên xin
xuống xe , nhanh chóng chạy đi hái vài nhánh thông đem về chấm điểm.
BUỔI HỌC CUỐI
CÙNG
Buổi
sáng thứ sáu ngày 30 tháng 3 năm 1972.
Chúng tôi được nghỉ học 2 tiết cuối. Cả lớp ùa ra như
ong vỡ tổ. Cười nói thật ồn ào, thật náo nhiệt . Nhóm chúng tôi, vẫn là những
người bạn thân thuộc. Chùa Sắc Tứ nhé !Ừ.Ừ…Đúng rồi.Đi thôi.Cả bầy con gái
chúng tôi tung tăng xách cặp, rời khỏi sân trường, cùng đi về phía bến xe đối
diện trường Nguyễn Hoàng.
Chuyện gì thế nhỉ? Hôm nay bến xe không đông đúc như
thường ngày. Thật vắng lặng. Một không gian im ắng lạ thường. Tin tức lan
nhanh, lan nhanh.Bọn học trò chúng tôi ai về nhà nấy thôi. Chiến sự đang xảy ra
rồi đó. Bên kia bờ sông Thạch Hản, từng đoàn người tản cư đang gồng gánh nhau về
Quảng Trị ngày một đông dần.
Chúng tôi chia tay nhau ra về không một lời hẹn gặp
lại, đành hủy bỏ chuyến đi chơi chùa Sắc Tứ đầy tiếc rẻ.Ai ngờ đó là buổi học
cuối cùng của chúng tôi tại mái trường Nguyễn Hoàng dấu yêu này.
XA QUÊ
Một buổi sáng cuối tháng 5 năm 1972.
Chiếc
máy bay đã mang theo cả gia đình tôi vào miền Nam . Bỏ lại sau lưng là quê hương
Quảng Trị, quê ngoại của tôi. Kể từ đó chưa một lần tôi trở về.
Con
đường từ thành phố Sài Gòn về Mỹ Tho thật lạ lẫm trong đôi mắt trẻ thơ của tôi.
Buổi chiều hôm đó, tôi về đây. Trong ánh nắng chiều còn khá gay gắt, tôi tìm ra
chợ Hàng Bông. Vùng đất này thật trù phú và những con người ở đây có vẻ phóng
khoáng. Tôi ngớ ngẩn đứng ngắm những quầy hàng trái cây chất đầy ở chợ mà cảm
thất thèm muốn cuộc sống yên lành như họ. Tôi tiếc nuối. Tôi nhớ thương những
ngày sống ở miền Trung. Trong trí nhớ
còn non nớt của tôi , những hình ảnh, những con đường phố dần hiện ra. Tôi cố
sức mà vẽ sơ đồ Quảng Trị , vẽ trong ngân ngấn nước mắt. Tôi sợ mình sẽ quên
đi- quên đi theo thời gian…Bạn bè của tôi tan tác khắp nơi. Một số bạn ở Đà Nẵng
thỉnh thoảng gởi thư và ảnh cho tôi, vẫn địa chỉ 56 Nguyễn Trãi, Mỹ Tho.Có lẽ
bạn bè thương cho tôi lạc loài nơi xứ lạ, quê người.Tôi nhớ lắm! Nhớ lắm!
Ngày
ngày tôi lại đi học, không phải trên con đường Quang Trung hoặc con đường làng
mát rượi bóng tre xanh mà lại trên con đường hoàn toàn xa lạ.Đường Hùng Vương
với hai hàng me xanh um, chạy dài, dẫn bước chân tôi đến ngôi trường mới. Tôi
thấy vô cùng bỡ ngỡ trước khung trời mới, bạn bè mới, thầy cô mới.Vì giọng nói
miền Trung khó nghe nên tôi sinh ra nhút nhát. Tôi ít nói hẳn và có vẻ trầm tư
hơn. Tuy nhiên vì sự cố gắng, chăm chỉ học tập của tôi đã mang lại cho tôi kết
quả khả quan. Thầy cô và bạn bè dành cho
tôi tình cảm ưu ái, thân thương. Gia đình tôi gặp nhiều khó khăn trong cuộc
sống mưu sinh, nhưng tôi vượt khó để học giỏi, không hỗ danh là người con miền
Trung hiếu học. Mỹ Tho từ đó trở thành quê hương thứ hai của tôi. Nơi đây tôi
cũng có đầy ắp kỷ niệm tuổi học trò. Chúng bạn thường rủ tôi về miền quê đầy ắp
cây trái, một vùng sông nước ven theo sông Tiền.
MỘT QUÊ HƯƠNG MỚI- NHƯ QUẢNG TRỊ QUÊ
MÌNH
Ngày 30 tháng 4 năm 1975. Đất nước được giải phóng!
Gia đình tôi tìm về vùng đất mới như số người dân miền
trung khác. Xứ Động Đền- Hàm Tân từ đó là quê hương mới của tôi.
Cuộc đời có nhiều thay đổi kể từ ngày ấy. Biết bao khổ
cực, đắng cay. Từ chỗ không biết cầm cuốc nay lại phải tập cầm cuốc,. Bàn tay
trở nên chai sạn, tự mày mò để tìm ra cái ăn từ sức sống của vùng đất cát đầy
nắng gió này. Chị em tôi rất vụng về trong lao động nhưng may thay vẫn kiếm
được củ khoai, củ sắn, trái bắp để ăn qua ngày. Mẹ tôi nghèo lắm nhưng vẫn cho
tôi tiếp tục đi học. Bao nhiêu gánh nặng
lại oằn lên đôi vai gầy yếu của mẹ. Ngày ngày tôi vẫn đến trường- ngôi trường
cấp 3 Hàm Tân.Chúng tôi đi bộ từ nhà đến trường xa lắm, do đó đành phải ở trọ,
một tuần về nhà một lần. Tôi phải đem theo theo gạo, khoai, ít thức ăn để dè xẻn cho đủ ăn trong tuần. Cứ
chiều chiều, khi ánh hoàng hôn buông xuống là tôi nhớ nhà da diết. Đôi mắt tôi
cứ đăm đắm trông về phía xóm nhà tôi ở. Không xa lắm nhưng tôi không thể về
được , nếu đi về hằng ngày sẽ rất tổn sức, lại còn ảnh hưởng đến việc học hành.
GẶP GỠ BẠN BÈ SAU BAO NHIÊU NĂM XA CÁCH
…Qua
ngày gặp mặt cựu học sinh Nguyễn Hoàng, mùa xuân năm 2008( tổ chức tại Suối
Dứa, La Gi) tôi đã liên lạc được số bạn bè cũ, cách đây mấy chục năm trời kể từ
năm 1972.
Nào Lý Thế Văn, Lê Thị Quảng, Lê Thị Xuân Nguyên,
Nguyễn Thị Thu Sương…Tôi gặp gỡ số bạn bè khác cùng khối lớp tại thành phố Hồ
Chí Minh như Liên( lớp trưởng lớp tôi hồi trường nữ tiểu học), Thảo, Ánh, Ti,
Hải, Phú, … bạn Trường Chinh và đặc biệt
là bạn Lăng( bề ngoài có vẻ khác các bạn nam khác vì để bộ râu có vẻ ra dáng
Tiến sĩ quá !)
Tiếc
rằng tôi không biết các bạn Công Huyền Tôn Nữ Anh Đào, Tôn Nữ Khánh Hiền, Tôn
Nữ Khánh Hiệp, Lê thị Mỹ Hạnh, Dương Thị Hóa, bạn Lai(em anh Sinh, hay giúp bạn
bè chúng tôi viết bài gởi báo Thằng Bờm), bạn Dung(tiệm đồng hồ Uy Tín), Mại
Phương(ở ty ngân khố)…giờ ở nơi nào? Tôi xa quê từ năm lớp 7, hồi đó còn nhỏ
quá! Nên kỷ niệm của tôi về trường lớp, bạn bè quá ư là ít ỏi.
Tôi cảm
ơn các bạn đã liên lạc và gặp lại tôi, cho tôi sống lại kỷ niệm thời thơ ấu,
thời áo trắng Nguyễn Hoàng, Quảng Trị mến thương.
Quê nội tôi là xứ Truồi, Huế nhưng tôi sinh ra và lớn
lên tại Quảng Trị, được sự đùm bọc của quê ngoại.
Làng Truồi, quê nội
Tôi chỉ nhớ mang máng con đường về thăm quê nội trong
những ngày Tết năm nào. Con đường nhỏ dẫn vào làng gần đường xe lửa.Âm thanh
tiếng còi tàu ngày xưa mà tôi nghe như vẫn còn vang vọng mãi cho tới bây giờ.Làng
tôi thơ mộng nằm ven con sông nhỏ, nước trong xanh ngăn ngắt, ngôi nhà nho nhỏ
của nội nằm khuất trong khu vườn rợp bóng cây.Tôi không có bao nhiêu ngày ở quê
nội, nên trong trí nhớ của tôi về nơi đây hầu như rất mờ nhạt.
Sông Truồi
Nhà tôi nằm trên đường Lê Văn Duyệt, ngay trước cửa cổ
thành Đinh Công Tráng. Đi vào một quãng là nhà bà ngoại. Quãng đời thơ ấu của
tôi bắt đầu từ nơi đây. Vào những ngày mưa bão năm xưa, mẹ và các cậu, dì của
tôi kéo nhau ra đường lôi những thân cây bị đổ về làm củi đốt. Còn đám nhỏ chúng
tôi thì ở trong nhà chơi đồ hàng rất ư là vô tư, hầu như không biết thế nào là
cái khổ sở của người dân chạy lụt.Ở đây tình làng nghĩa xóm rất khắn khít, sống
chan hòa yêu thương nhau. Chúng tôi thường rủ nhau ra phía cuối xóm. Nhìn phía
xa tít tắp chân trời là những cánh đồng, những làng mạc. Tôi đoán chừng đâu đó
là Nại Cữu, quê của mẹ tôi. Lũ nhỏ chúng tôi còn tinh nghịch leo lên cả mấy mộ
đá đen sì, hù dọa ma rồi rượt đuổi nhau chạy ù về xóm. Vào dịpTết, chúng tôi
thường rủ nhau về làng quê Nại Cữu. Đi
bộ quãng đường thật dài nhưng vừa đi vừa đùa giỡn nên chúng tôi quên hết
bao mệt mỏi. Làng ngoại tôi nghèo lắm, đa số sống bằng nghề làm nông, còn những
ai khá giả đã tìm đường ra tỉnh hoặc đi sinh sống nơi khác. Ra đến bến sông ven
lũy tre làng, chúng tôi tha hồ nghịch nước. Đang đói bụng nên ăn bữa cơm trưa đạm bạc thấy rất ngon lành dù
chỉ là cơm trắng với muối ớt, dưa cà. Chơi đùa thỏa thích, buổi chiều lại kéo
nhau về nhà. Vừa đi vừa chạy sợ bị Cách mạng nằm vùng bắt lại.(Nghĩ lại thấy
tức cười quá!Ai thèm bắt lũ nhóc chúng tôi nhỉ!).
QUẢNG TRỊ ƠI
!NHỮNG NGÀY VUI
Sau năm 1968, biến cố Xuân Mậu thân, gia đình tôi lên
ở ngay chợ Quảng Trị. Dì và mẹ tôi thuê một ngôi nhà (sát tiệm chụp ảnh Li Do)
để buôn bán. Tôi tiếp tục học trường nữ tiểu học.Sau đó tôi thi đậu vào trường
Nguyễn Hoàng. Tôi có thêm những bạn bè mới.
Sau buổi học, chúng tôi thường rủ nhau đi tìm cây
lá…về sưu tầm, đem lên cho thầy, cô chấm điểm môn Vạn Vật.Muốn có cây dương xỉ,
tôi và vài ba đứa bạn tìm đến những bờ ao ven làng để kiếm. Muốn có rêu, tôi
chỉ việc đến nhà bạn, leo lên vách nhà gỡ xuống vài mảng . Muốn có rong biển,
chúng tôi phải đi xa hơn. Chúng tôi đạp xe về tận biển Cửa Việt. Về đến đó, tội
lội ngay xuống vũng nước vớt rong, bỏ vào vài bao ni lon . Khi đem về, chúng
tôi giữ khư khư coi như là báu vật…Tụi bạn còn rủ tôi đạp xe về quê chúng ở
làng Quy Thiện chơi. Đám con gái tuổi 12, 13 mà nghịch không kém gì đám bạn con
trai.Chúng tôi tha hồ leo cây hái ổi, nào trái ăn trái để dành mang về nhà.
Tham gia hoạt động xã hội- đây là hoạt động tôi rất
thích vì bản tính tôi vô cùng hiếu động. Tôi là đoàn viên trong Đoàn thể Học sinh Phật tử. Vào mỗi buổi
chiều chủ nhật, tôi đến chùa Tỉnh Hội để sinh hoạt vui chơi. Không những thế,
tôi còn cùng với các anh chị tham gia công tác cứu trợ đồng bào bị thiên tai lũ
lụt. Có một lần đi cứu trợ tại Mỹ Chánh. Từ sáng sớm ,chúng tôi tập trung tại
chùa, nhanh chóng leo lên xe để đi, bất chấp mọi nguy hiểm. Vài chiếc xe lớn
chở đoàn người chúng tôi vào vùng nước lũ vẫn còn chưa rút hết.Xe chạy băng qua
những con đường ngập nước, nước tràn cả lên đường cái. Đến nơi, chúng tôi tập
kết bên này sông. Một vài chiếc đò lần lượt chở từng đoàn người và lương thực,
thực phẩm qua sông để kịp thời cứu trợ cho dân trong làng. Giờ nghĩ lại thấy
cũng liều! Lỡ may đò chìm nghỉm thì làm gì còn có hôm nay. Có một điều rất vui
và cảm động là người dân nghèo quý chúng tôi lắm. Họ vui mừng không kể xiết.
Trưa hôm đó, chúng tôi ăn qua loa cho đỡ đói lòng. Vẻ mặt người nào cũng hớn hở,
vẫn cười đùa, ca hát vô tư mặc gì trời
mưa rét. Chia tay ra về, ai nấy cũng còn
lưu luyến. Khi đi xuống đình làng, tôi vẫn còn thong thả ôm Ông Thiện để cầu
được ban phước lành( Ở đây có hai ông thần đứng chầu hai bên, một bên là Ông
thiện, còn một bên là Ông Ác).Cũng vẫn là những chiếc đò mỏng manh lần lượt chở
chúng tôi trả về bên này bờ sông.
Đi cứu trợ lần này, giữa đường tôi vẫn không quên xin
xuống xe , nhanh chóng chạy đi hái vài nhánh thông đem về chấm điểm.
BUỔI HỌC CUỐI
CÙNG
Buổi
sáng thứ sáu ngày 30 tháng 3 năm 1972.
Chúng tôi được nghỉ học 2 tiết cuối. Cả lớp ùa ra như
ong vỡ tổ. Cười nói thật ồn ào, thật náo nhiệt . Nhóm chúng tôi, vẫn là những
người bạn thân thuộc. Chùa Sắc Tứ nhé !Ừ.Ừ…Đúng rồi.Đi thôi.Cả bầy con gái
chúng tôi tung tăng xách cặp, rời khỏi sân trường, cùng đi về phía bến xe đối
diện trường Nguyễn Hoàng.
Chuyện gì thế nhỉ? Hôm nay bến xe không đông đúc như
thường ngày. Thật vắng lặng. Một không gian im ắng lạ thường. Tin tức lan
nhanh, lan nhanh.Bọn học trò chúng tôi ai về nhà nấy thôi. Chiến sự đang xảy ra
rồi đó. Bên kia bờ sông Thạch Hản, từng đoàn người tản cư đang gồng gánh nhau về
Quảng Trị ngày một đông dần.
Chúng tôi chia tay nhau ra về không một lời hẹn gặp
lại, đành hủy bỏ chuyến đi chơi chùa Sắc Tứ đầy tiếc rẻ.Ai ngờ đó là buổi học
cuối cùng của chúng tôi tại mái trường Nguyễn Hoàng dấu yêu này.
XA QUÊ
Một buổi sáng cuối tháng 5 năm 1972.
Chiếc
máy bay đã mang theo cả gia đình tôi vào miền Nam . Bỏ lại sau lưng là quê hương
Quảng Trị, quê ngoại của tôi. Kể từ đó chưa một lần tôi trở về.
Con
đường từ thành phố Sài Gòn về Mỹ Tho thật lạ lẫm trong đôi mắt trẻ thơ của tôi.
Buổi chiều hôm đó, tôi về đây. Trong ánh nắng chiều còn khá gay gắt, tôi tìm ra
chợ Hàng Bông. Vùng đất này thật trù phú và những con người ở đây có vẻ phóng
khoáng. Tôi ngớ ngẩn đứng ngắm những quầy hàng trái cây chất đầy ở chợ mà cảm
thất thèm muốn cuộc sống yên lành như họ. Tôi tiếc nuối. Tôi nhớ thương những
ngày sống ở miền Trung. Trong trí nhớ
còn non nớt của tôi , những hình ảnh, những con đường phố dần hiện ra. Tôi cố
sức mà vẽ sơ đồ Quảng Trị , vẽ trong ngân ngấn nước mắt. Tôi sợ mình sẽ quên
đi- quên đi theo thời gian…Bạn bè của tôi tan tác khắp nơi. Một số bạn ở Đà Nẵng
thỉnh thoảng gởi thư và ảnh cho tôi, vẫn địa chỉ 56 Nguyễn Trãi, Mỹ Tho.Có lẽ
bạn bè thương cho tôi lạc loài nơi xứ lạ, quê người.Tôi nhớ lắm! Nhớ lắm!
Ngày
ngày tôi lại đi học, không phải trên con đường Quang Trung hoặc con đường làng
mát rượi bóng tre xanh mà lại trên con đường hoàn toàn xa lạ.Đường Hùng Vương
với hai hàng me xanh um, chạy dài, dẫn bước chân tôi đến ngôi trường mới. Tôi
thấy vô cùng bỡ ngỡ trước khung trời mới, bạn bè mới, thầy cô mới.Vì giọng nói
miền Trung khó nghe nên tôi sinh ra nhút nhát. Tôi ít nói hẳn và có vẻ trầm tư
hơn. Tuy nhiên vì sự cố gắng, chăm chỉ học tập của tôi đã mang lại cho tôi kết
quả khả quan. Thầy cô và bạn bè dành cho
tôi tình cảm ưu ái, thân thương. Gia đình tôi gặp nhiều khó khăn trong cuộc
sống mưu sinh, nhưng tôi vượt khó để học giỏi, không hỗ danh là người con miền
Trung hiếu học. Mỹ Tho từ đó trở thành quê hương thứ hai của tôi. Nơi đây tôi
cũng có đầy ắp kỷ niệm tuổi học trò. Chúng bạn thường rủ tôi về miền quê đầy ắp
cây trái, một vùng sông nước ven theo sông Tiền.
MỘT QUÊ HƯƠNG MỚI- NHƯ QUẢNG TRỊ QUÊ
MÌNH
Ngày 30 tháng 4 năm 1975. Đất nước được giải phóng!
Gia đình tôi tìm về vùng đất mới như số người dân miền
trung khác. Xứ Động Đền- Hàm Tân từ đó là quê hương mới của tôi.
Cuộc đời có nhiều thay đổi kể từ ngày ấy. Biết bao khổ
cực, đắng cay. Từ chỗ không biết cầm cuốc nay lại phải tập cầm cuốc,. Bàn tay
trở nên chai sạn, tự mày mò để tìm ra cái ăn từ sức sống của vùng đất cát đầy
nắng gió này. Chị em tôi rất vụng về trong lao động nhưng may thay vẫn kiếm
được củ khoai, củ sắn, trái bắp để ăn qua ngày. Mẹ tôi nghèo lắm nhưng vẫn cho
tôi tiếp tục đi học. Bao nhiêu gánh nặng
lại oằn lên đôi vai gầy yếu của mẹ. Ngày ngày tôi vẫn đến trường- ngôi trường
cấp 3 Hàm Tân.Chúng tôi đi bộ từ nhà đến trường xa lắm, do đó đành phải ở trọ,
một tuần về nhà một lần. Tôi phải đem theo theo gạo, khoai, ít thức ăn để dè xẻn cho đủ ăn trong tuần. Cứ
chiều chiều, khi ánh hoàng hôn buông xuống là tôi nhớ nhà da diết. Đôi mắt tôi
cứ đăm đắm trông về phía xóm nhà tôi ở. Không xa lắm nhưng tôi không thể về
được , nếu đi về hằng ngày sẽ rất tổn sức, lại còn ảnh hưởng đến việc học hành.
GẶP GỠ BẠN BÈ SAU BAO NHIÊU NĂM XA CÁCH
…Qua
ngày gặp mặt cựu học sinh Nguyễn Hoàng, mùa xuân năm 2008( tổ chức tại Suối
Dứa, La Gi) tôi đã liên lạc được số bạn bè cũ, cách đây mấy chục năm trời kể từ
năm 1972.
Nào Lý Thế Văn, Lê Thị Quảng, Lê Thị Xuân Nguyên,
Nguyễn Thị Thu Sương…Tôi gặp gỡ số bạn bè khác cùng khối lớp tại thành phố Hồ
Chí Minh như Liên( lớp trưởng lớp tôi hồi trường nữ tiểu học), Thảo, Ánh, Ti,
Hải, Phú, … bạn Trường Chinh và đặc biệt
là bạn Lăng( bề ngoài có vẻ khác các bạn nam khác vì để bộ râu có vẻ ra dáng
Tiến sĩ quá !)
Tiếc
rằng tôi không biết các bạn Công Huyền Tôn Nữ Anh Đào, Tôn Nữ Khánh Hiền, Tôn
Nữ Khánh Hiệp, Lê thị Mỹ Hạnh, Dương Thị Hóa, bạn Lai(em anh Sinh, hay giúp bạn
bè chúng tôi viết bài gởi báo Thằng Bờm), bạn Dung(tiệm đồng hồ Uy Tín), Mại
Phương(ở ty ngân khố)…giờ ở nơi nào? Tôi xa quê từ năm lớp 7, hồi đó còn nhỏ
quá! Nên kỷ niệm của tôi về trường lớp, bạn bè quá ư là ít ỏi.
Tôi cảm
ơn các bạn đã liên lạc và gặp lại tôi, cho tôi sống lại kỷ niệm thời thơ ấu,
thời áo trắng Nguyễn Hoàng, Quảng Trị mến thương.