(Ba người bạn)
Giọng ca của cô Châu cất lên trong
trẻo, cũng không phá đi sự ồn ào của tiệc đám cưới, tôi chú ý lắng nghe từng
lời bài ca quá quen thuộc:
“Hai năm ôm mộng
Tình ta đã già.
Hai năm tình chạy
Em mỏi chân chưa …”
Tôi còn nhớ khá rõ lời và điệu nhạc
của bài hát này, nhạc sĩ không chuyên hồi đó là cậu học trò, mà chị họ tôi gọi
là BNPH. Cô Châu là vợ của ông Nguyễn L. là trưởng CA thị xã La Gi, ông một
thời cũng là học trò dưới mái trường Cam Lộ, Cam Mỹ.
“Theo đoàn lưu dân” người dân Quảng
Trị trước năm 1975 theo các Cha xứ vào đây sinh sống. Nghe nói dân Động Đền đa
số theo cha Nam ,
còn dân Đông Hà thì đi theo cha Hoan. Tôi ở xa về, ghé thăm bà con vào những
ngày giáp Tết đầu mùa xuân 1975. Tôi cùng leo lên dốc cao đến trường Cam Lộ xem
thầy trò dựng Hội trại. Dốc Trung Giang khá cao, lên đến đỉnh thì thoai thoải
hơn, từ dốc nhìn xuống thấy cảnh biển hình
vòng cung, ở xa tít tắp dưới kia. Mặt biển xanh thẳm một màu, có quãng bị che
khuất bởi những khu nhà cao thấp ở thị trấn La Gi và biết bao là vòm cây. Nhà
cách nhà là những lô đất rộng đến một,
hai sào. Vườn cây là những cây mít nhẫy nhượt mọc lên xanh tốt trên miền đất
mới màu mỡ bao bọc lấy ngôi nhà lá hoặc nhà gỗ ở chính giữa. Đây coi như là
vùng đất hứa của người dân Quảng Trị vào lập nghiệp. Đất mới khai hoang màu đỏ
pha hứa hẹn những mùa bội thu khoai sắn.
Chị họ giới thiệu với tôi hai người
bạn thân của chị, mà cả trường hay gọi là tam ca: Duyên (Du Uyên), Ngọc Lan,
Huệ (Trắng). Nhìn họ có vẻ khắn khít, đi đâu cũng có nhau. Dưới hàng cây xanh
của sân trường, ba chị đang dợt lại bài hát của anh bạn mới sáng tác, đó là
những nỗi lòng của anh PH trải vào trong đó về cô học trò anh thầm yêu. Ai cũng
thích hát nhạc của anh Ph vì lời lẽ rất dễ thương:
“Hai năm ôm mộng
Tình ta đã già…”
Tôi cũng không hỏi ai là người được
anh PH gởi gắm tình cảm vào trong bài hát, chỉ nghe chị Huệ của tôi hết lời ca
ngợi anh. (Sau này, anh cùng gia đình hồi cư về Quảng Trị; vùng đất này không
thể níu kéo được bước chân, họ tìm về lại trên mảnh đất quê cha ruột thịt)
Ngày Tết sắp đến, tôi giã từ các anh
chị ở miền đông Nam bộ này
để về lại miền Nam ,
nơi tôi đang sinh sống. Tôi kịp thoáng nhìn thấy các thầy, trong đó có thầy Lê
Mậu Duy, thầy Nguyễn Hiền mà sau này về đây tôi mới biết đến.
Bến xe lam ở trước mặt chợ, nay là
chợ Cam Bình, đã ghi lại trong tâm hồn tôi một vài kỉ niệm vui nho nhỏ khi tôi
chia tay để ra ngã tư đón xe về nhà.
Ngày hôm nay, tôi không là cô bé ngày
nào mới 16 tuổi, tập tễnh những bước đi vào đời, để tâm hồn mình bay bổng lên
với tình yêu trong sáng, thơ ngây tuổi học trò. Tôi không phải ngước nhìn một
cách ngưỡng mộ về chị họ tôi và hai người bạn gái. Tôi đã biết nhiều về tình
bạn của họ thời áo dài trắng cắp sách đến trường trên đồi cao kia. Con đường đi
học ngày qua ngày không êm ả, bằng phẳng như ở chốn thị thành nhưng là một con
dốc cao, lối đi về cũng lắm mối tình thơ mộng. Tam ca áo trắng thời ấy cứ thế
cất lên tiếng ca trong veo, thánh thót để ca ngợi cuộc sống như những con chim
non luôn ca ngợi bầu trời tự do, đẹp đẽ. Đặc biệt chị Huệ Trắng có giọng ca
trời phú, thật cao vút, nhất là khi chị hát những bản tình ca của Trịnh Công
Sơn hoặc Phạm Duy.
Chị Duyên- sau này tôi gặp lại chị trong
bệnh viện Hàm Tân, chị là cô y tá dễ thương trong chiếc áo blu trắng. Bẳng đi một
thời gian dài, tôi không gặp chị. Cho đến một ngày đầu năm học 2003-2004, tôi
về làm việc tại trường mới ngay giữa trung tâm thị xã. Một hôm, tình cờ, tôi
trông thấy chị ở một ngôi nhà gần trường. Tôi mừng rỡ vô cùng, vội vàng ghé nhà
thăm chị. Ngôi nhà của chị xây theo kiểu cổ, nhà xây có gác lửng, khu vườn nhiều
cây cối bao quanh. Một ngôi nhà vườn ở khu vực dân cư đông đúc nhưng cuộc sống
hai vợ chồng rất bình lặng, đều là những người về hưu sống ẩn dật, chăm chút
cho ngôi nhà và vườn cây quanh nhà. Vườn nhà chị có cả những bụi chuối đang trổ
buồng mọc trên bờ ao bông súng đang nở hoa, có những nụ hoa màu hồng phấn lấp
ló như cứ muốn vươn lên khỏi mặt nước. Có
những lúc, khi bắt đầu một ngày làm việc tại trường, khi mở cửa sổ ra; từ ô cửa
tôi nhìn thấy chị và hai chị em cứ vẫy tay chào nhau. Tôi có thói quen cứ mở
cửa sổ là nhìn qua bức tường, mong được nhìn thấy chị. Hai vợ chồng đã chăm cho
bụi hoa tím mau leo lên giàn, để che ánh nắng mặt trời chói chang buổi sáng,
nên một khi bụi cây đã leo lên hết cái giàn kia, tỏa bóng râm mát cho một khoảng sân trước nhà chị, thì
tôi chỉ còn thấy thấp thoáng bóng hai vợ chồng ngồi trước ban công nhà vào mỗi
buổi sớm mai.
Chị Ngọc Lan- một nhân vật đáng yêu,
giọng nói bao giờ cũng nhẹ nhàng dễ mến. Vào một ngày đầu tháng 9, lớp lớp
người về dự họp mít tinh ở sân vận động Hàm Tân; nhà chị lại có chuyện đau buồn,
người chị kế của chị là Mộng Hà đã tự tìm đến cái chết. Cái chết của chị khiến
mọi người thương xót một cô gái trẻ đẹp. Mẹ chị cũng bị bệnh, thần kinh không
ổn. Anh em nhà chị sau này bỏ xứ, theo nhau đi làm ăn nơi khác. Tôi từng nghe
về cuộc sống của chị, chị có một đời chồng và đã li dị, chị lấy một người đàn
ông khác tính tình cũng thất thường. Cuộc đời chị lắm gian truân; người ta
thường nói hồng nhan bạc phận là thế. Có lần, tôi lên dự đám cưới cháu ở Sùng
Nhơn, một vùng đất xa xôi, tận cùng của tỉnh Bình Thuận, gần giáp với tỉnh Lâm
Đồng. Xế trưa, thay về tôi đi về đường Lạc Tánh mà sáng nay tôi đã đi qua, tôi
lại cùng các anh chị bà con chạy về đường Đa Kai để ra Phương Lâm, Định Quán ra
quốc lộ 1A. Chúng tôi dừng chân ghé lại quán café của chị Ngọc Lan. Tôi thấy người
chồng của chị đúng như tôi đã hình dung, mặt mày thô kệch, râu tóc dài trông có
vẻ quái dị. Sau này, tôi nghe tin vợ chồng chị lại bỏ nhau, chị đi làm xa để
nuôi con ăn học. Một tối, bất ngờ chị gọi điện cho tôi, kể về việc chị hiện
đang làm bồi cho một nhà nghỉ, khách sạn nào đó ở Võ Đắc, Ông Đồn nhưng chịu
không nổi sự hà khắc của bà chủ chị lên Sài Gòn lại tiếp tục kiếm việc làm
khác. Tôi không thể tin nổi một cô gái mảnh mai ngày nào giờ phải lâm vào hoàn
cảnh bi đát như thế. Giờ này chị đang làm tại một cơ sở nuôi trẻ ở quận 7, chị
làm việc và được ở lại vô cùng thuận tiện cho chị. Mong cuộc sống của chị cứ
bình yên như thế để chị còn tiếp tục nuôi cho hai đứa con trai ăn học nên người.
Nhân vật thứ ba tôi sẽ đề cập đến là
chị họ tôi, chị Huệ Trắng, biệt danh này được đặt cho chị từ những ngày đi học
ở dưới ngôi trường trên đồi cao gió hú kia. Những tháng ngày sau giải phóng, việc
tập tành văn nghệ, ca hát là cái thú vui của chị. Ban ngày lao động trên nương
vườn, tối đến sinh hoạt đoàn thanh niên. Lời ca tiếng hát xua đi mọi gian khổ,
tạo niềm vui sống cho chị cũng như cho mọi người. Tiếng hát vẫn cao vút giữa
bầu trời trập trùng, chị vẫn vô tư khi lội qua suối, cùng các em lên nương rẩy,
nhà chị theo người ta làm những vụ bắp, những vụ mùa trồng khoai, sắn như nhà
tôi vậy. May mắn Ông trời thương dân nghèo, những năm này chưa ai phải chết
đói, vùng đất mới còn có những bãi trồng dưa hấu; bờ biển Cam Bình đầy tôm cá
đủ sức che chở, nuôi biết bao con người xứ Quảng Trị, Bình Long. Giọng hót của
những chú chim trên bầu trời kia chưa chắc đã thánh thót bằng chị, nhất là bài:
“cô gái vót chông” chị lấy hơi, tiếng ca ngân dài chưa muốn dứt. Về sau, chị có
gia đình sớm, bỏ cuộc vui…chị chuyển lên ở Xuân Sơn, Bà Rịa Vũng Tàu. Cuộc đời
chị gắn chặt với chồng con, lại là nương mì và những vườn tiêu xanh um. Các con
chị giờ khôn lớn, kể như chị cũng an phận với cuộc sống gia đình. Giờ này,
giọng ca của cô gái trẻ ngày nào có còn vươn xa, bay xa theo thời gian nữa
không?
Tam ca ngày nào bên nhau, đem lại
những khúc hát vào đời ca ngợi tuổi hồn nhiên, thuở áo trắng học trò này đâu
còn gần gũi bên nhau. Mỗi người đi mỗi phương trời, mỗi người có một hoàn cảnh
sống riêng. Nếu có một lúc nào đó, các chị gặp gỡ nhau, nghe lại những ca khúc
đầu đời của anh BNPH thì chắc sẽ gợi nhớ nhiều đến kỉ niệm thời đi học, những
ngày tháng bên nhau cùng học hành cùng vui chơi dưới mái trường đơn sơ, bình
dị.
“…Con đường còn dài em ơi
Nẻo đường còn nhiều phôi pha
Nếu mà đời có khổ đau
Đừng trách gì nhau ơi đời”
Chiều thứ sáu, 14-6-1013
Tặng ba chị Du Uyên-Ngọc Lan và Huệ trắng
Trả lờiXóa